Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

Áp thuế NK 6% phân bón hợp quy NPK có hoặc không bổ sung trung vi lượng.

CHUNG NHAN HOP QUY PHAN BON Với Cty CP đầu tư thương mại ôtô quốc tế và Cty CP truyền thông OXY do đơn vị mới được cấp giấy hợp quy cuối năm 2012 nên chưa tổ chức sản xuất và chưa có sản phẩm hợp quy cung cấp cho thị trường


I. chứng nhận hợp quy thuốc BVTV Các đội QLTT còn phát hiện hàng loạt cửa hàng tự in tem hợp quy để qua mặt các cơ quan chức năng


Cụ thể, theo Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho biết, đến cuối tháng 3/2010, lượng urê nhập khẩu là 280.000 tấn, kali 171.000 tấn, DAP 83.000 tấn... Trong tháng 4/2010, sẽ có thêm khoảng 85.000 tấn urê từ sản xuất trong nước. Như vậy, để chuẩn bị cho vụ hè thu, nước ta sẽ có khoảng 661.000 tấn urê, 128.000 tấn DAP, 190.000 tấn kali, 250.000 tấn super lân, 100.000 tấn lân nung chảy, 1.300.000 tấn NPK, 30.000 tấn phân vi sinh, phân hữu cơ... Với lượng phân bón khá lớn được dự báo sẽ đủ cung cấp cho vụ lúa hè thu, song theo các chuyên gia, nhiều khả năng giá phân bón vẫn tăng bởi do tác động của nhiều yếu tố như giá xăng dầu, điện, than tăng, sẽ ảnh hưởng tới giá thành của phân bón sản xuất trong nước... Để bình ổn thị trường phân bón, các chuyên gia cho rằng ngành sản xuất phân bón trong nước cần phải được quan tâm phát triển để tăng sản lượng nhằm chủ động đáp ứng nhu cầu thị trường nội địa. Ngoài ra, cần phải đẩy mạnh sản xuất phân NPK chất lượng cao. Loại phân bón này nếu tăng cường cải tiến, đổi mới công nghệ thì có thể thay thế được một phần DAP nhập khẩu. Nếu sản xuất nội địa bảo đảm sẽ hạn chế đáng kể tình trạng nhập siêu…. Năm 1997 Cty Apatit Việt Nam đưa dây chuyền SX phân bón tổng hợp NPK Hoàng Liên, với 5 loại phân: NPK 5-10-3, NPK 8-6-4, NPK 10-5-5, NPK 12-2-8, NPK 12-5-10. Do lợi thế đưa vào SX là nguồn nguyên liệu Apatit đã qua tuyển tốt nhất, kết hợp với phân bùn Đông Hà được tích tụ hàng triệu năm, tạo cho NPK Hoàng Liên có chất lượng hơn hẳn các loại phân bón cùng loại. Đóng bao NPK Hoàng Liên. Vì sinh sau đẻ muộn, nên NPK Hoàng Liên đã lấy chất lượng đặt lên hàng đầu. Không chỉ phục vụ các tỉnh miền núi phía Bắc, NPK Hoàng Liên đã có mặt ở nhiều tỉnh: Thái Bình, Nam Định, Thái Nguyên, Bắc Giang, Tuyên Quang, Yên Bái, Lai Châu, Hà Giang, Sơn La… Nông dân sử dụng NPK Hoàng Liên năng suất cây trồng đều hơn hẳn các loại phân khác. Bộ NN-PTNT có QĐ 123-1998/QĐ-BNN-KHCN cho phép Cty Apatit Việt Nam SX phân bón NPK Hoàng Liên lưu hành toàn quốc. Mục tiêu ban đầu của NPK Hoàng Liên là phục vụ bà con nông dân các dân tộc khu vực miền núi phía Bắc, do đường đất xa xôi các Cty lớn không chú ý tới, nhất là việc vận chuyển phân bón gặp rất nhiều khó khăn, giá cả đắt đỏ, vì thế người dân không thể đầu tư vào SX. Những năm đầu tiên, sản lượng NPK Hoàng Liên chỉ đạt 8.000 -15.000 tấn/năm. Ưu thế của NPK Hoàng Liên tan nhanh, phù hợp canh tác trên đất dốc quanh năm khô hạn, lượng mưa ít. Do chất phụ gia là quặng tuyển Apatit, hàm lượng P205 đều đạt từ 32 - 33% và phân bùn nên đã bổ sung cho đất một lượng mùn đáng kể. Khi sử dụng NPK Hoàng Liên lượng mùn nhiều hơn, đất trở nên tơi xốp, cây khỏe, lá xanh năng suất cao. Vì thế, nông dân sử dụng ngày một nhiều hơn, nhất là các tỉnh miền núi phía Bắc bón cho những loại cây trồng trên đất dốc nhưu chè, hợp quy, phân bón npk mía, sắn, ngô, đậu, lạc, nhãn, vải... Đến nay sản lượng NPK Hoàng Liên đạt 30.000 - 33.000 tấn/năm. Diện tích chè bón NPK Hoàng Liên năng suất 15 tấn/ha. Những Cty sử dụng NPK Hoàng Liên đã nhận xét: Cây phát triển khỏe ngay từ ban đầu, tạo tiền đề cho việc chống chịu sâu bệnh để tạo ra năng suất cao”. Bà Hoàng Thị Trâm, xã Tân Thịnh Văn Chấn, Yên Bái thành thật: Gia đình tôi có hơn 1 ha chè, trước đây dùng NPK của một số Cty, hết vụ chè mà vẫn thấy nhiều hạt phân chưa tan, thử bóp thì thấy phân cứng như đá. Tìm hiểu ra, thì loại phân đó chỉ phù hợp bón cho lúa, còn bón cho chè và những cây trồng cạn thì lâu tan. Từ đó đến nay đã hơn chục năm rồi gia đình tôi chỉ sử dụng NPK Hoàng Liên, bao màu vàng. Loại phân này tan trong điều kiện đất ẩm, bón trên đồi thì rất tốt...”. Ông Ngô Phạm Khái, GĐ Xí nghiệp Phân bón & hóa chất: Xí nghiệp Phân bón & hóa chất được Cty Apatit Việt Nam giao nhiệm vụ SX 5 loại phân bón NPK Hoàng Liên, chúng tôi đã sử dụng nguồn nguyên liệu tốt nhất, máy móc hiện đại và công nghệ tiên tiến để SX. Sau khi sử dụng loại phân bón này, nông dân đã gọi phân bón NPK Hoàng Liên là phân ma”, nay người ta lại gọi là hiệp sĩ” chinh phục đất dốc. Chúng tôi đã xác định đi với nông dân trọn đời, nên luôn phải giữ chữ tín đối với họ... Còn ông Nguyễn Trọng Luyến vua cam” ở thị trấn Nông trường Trần Phú Văn Chấn, Yên Bái cho biết: Gia đình tôi có 4 ha cam, mỗi năm thu hoạch từ 130 - 140 tấn quả, ngoài phân hữu cơ gia đình tôi bón một lượng phân vô cơ từ 8 - 10 tấn/năm, chủ yếu là NPK Hoàng Liên. Bà con ở đây đều sử dụng loại phân này, đã cho quả mọng, màu sắc đẹp bán đắt hàng. Có thể nói NPK Hoàng Liên giống như chàng hiệp sĩ” áo vàng đã chinh phục vùng đất dốc nơi này...”. Nhiều người còn gọi là phân ma”, vì bón loại phân này năng suất tăng vọt bất ngờ. Với chất lượng sản phẩm không chỉ được nông dân chấp nhận, tháng 5/2004 NPK Hoàng Liên đã được Bộ Công thương trao Huy chương vàng và Giấy chứng nhận Hàng Việt Nam chất lượng cao”, năm 2006 Bộ NN-PTNT trao Cúp vàng cho các sản phẩm NPK Hoàng Liên. Đến nay, ngoài hàng chục ngàn hộ nông dân của các tỉnh: Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Tuyên Quang, Bắc Giang... Các Cty chè có diện tích lớn của khu vực miền núi phía Bắc: Nghĩa Lộ, Trần Phú, Liên Sơn, Mộc Châu... Đều sử dụng NPK Hoàng Liên với số lượng hàng ngàn tấn mỗi năm. Gần 7 tháng đầu năm 2013, số lượng NPK Hoàng Liên đã tiêu thụ trên 21.000 tấn, SX đến đâu tiêu thụ hết đến đó, kho phân bón của xí nghiệp luôn trong tình trạng cháy hàng..


Ông Nguyễn Duy Khuyến- Tổng giám đốc Công ty Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao: Do luôn bám sát thị trường nên công ty đã chỉ đạo sản xuất các mặt hàng đáp ứng đúng nhu cầu của nông dân. Đặc biệt, công ty đã tập trung chiến lược bón phân khép kín bằng NPK Lâm Thao để nâng cao hiệu quả. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn NNPTNT cho biết, vụ đông xuân 2012- 2013, dự kiến toàn miền Bắc sẽ gieo cấy khoảng 1,145 triệu ha cây trồng, nên ngay từ thời điểm này, cần phải chuẩn bị một lượng lớn phân bón, nhất là các loại phân như urê, NPK, DAP, kali... CôngThương - Công ty TNHH một thành viên Phân đạm và hóa chất Hà Bắc cho biết, vụ đông xuân năm nay, công ty dự kiến cung ứng ra thị trường khoảng 70.000 tấn phân urê. Đại diện công ty cũng nhận định, thời gian qua, tình hình phân bón trong nước tồn kho lớn nên giá cả vẫn đang có xu hướng giảm xuống, người nông dân đang được hưởng lợi khi mua phân bón thời điểm này. Đối với mặt hàng phân bón NPK, ông Nguyễn Duy Khuyến - Tổng giám đốc Công ty cổ phần Supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao- cam kết: Vụ đông xuân tới, công ty sẽ đưa ra thị trường 450.000 tấn phân bón các loại, tăng 50.000 tấn so với cùng kỳ năm ngoái. Bên cạnh đó, do lượng cung dồi dào, nên công ty cũng cam kết sẽ giữ nguyên giá bán trong suốt tháng 1/2013. Công ty cổ phần Phân lân Ninh Bình sẽ đưa ra thị trường 30.000 tấn phân 3 màu và 30.000 tấn phân NPK với giá cả ổn định, thậm chí công ty còn đang tính toán, có thể giảm giá phân urê. Tại thời điểm này, nhiều địa phương cũng đã chủ động mua phân bón để chuẩn bị cho vụ đông xuân. Hiện nguồn hàng các loại phân như urê, NPK, lân, ka li… của doanh nghiệp và những đại lý đang khá dồi dào. Diễn biến như hiện nay có thể nhận thấy, khả năng giá phân bón sẽ ổn định trong một thời gian dài. Tuy nhiên, giá phân bón ở tất cả các vùng miền trong nước đều ổn định so với tháng 10. Tại miền Bắc giá đạm Phú Mỹ ở mức 10.550-10.600 đồng/kg, miền Trung và Tây Nguyên ở mức 10.600 đồng/kg; miền Đông Nam bộ 10.600 đồng/kg; giá phân urê thấp hơn giá đạm Phú Mỹ khoảng 150-200 đồng/kg. Dự báo trong tháng 12, nhu cầu phân bón tiếp tục tăng do các địa phương đồng loạt xuống giống vụ đông xuân nhưng giá phân bón cũng sẽ ổn định do nguồn cung dồi dào. Sản xuất phân bón các loại 11 tháng đều tăng so với cùng kỳ, trong đó phân lân tăng 5,5%, phân NPK tăng 15 %, phân DAP tăng 60%. Riêng phân đạm urê giảm 0,2% so với cùng kỳ nguyên nhân chủ yếu là do Nhà máy đạm Phú Mỹ ngừng hoạt động để sửa chữa, bảo dưỡng lớn một tháng. Dự án đạm Cà Mau đang tập trung các nguồn lực và thực hiện đồng bộ các giải pháp để đẩy nhanh tiến độ, đảm bảo sản xuất ra sản phẩm đầu tiên vào cuối tháng 12/2011. /. Hằng Trần TTXVN/Vietnam+. Lỗ nặng vì trữ phân Theo kế hoạch, vụ ĐX 2013 - 2014, toàn khu vực ĐBSCL sẽ gieo sạ khoảng 1,6 triệu ha lúa. Mặc dù lũ mùa nước nổi mới đạt đỉnh và đang rút chậm nhưng các tỉnh như Sóc Trăng, Đồng Tháp, Vĩnh Long, Bạc Liêu, Kiên Giang, Hậu Giang…, những khu vực nằm trong vùng đê bao an toàn đã tranh thủ xuống giống sớm. Bộ NN-PTNT cũng chỉ đạo các địa phương cần tranh thủ rút nước sớm, tập trung xuống giống lúa ĐX chính vụ trong tháng 11 này, những nơi trũng, nước ngập sâu chưa thể gieo sạ ngay thì chậm nhất trong tháng 12 là phải kết thúc nhằm tránh bị hạn, mặn vào cuối vụ. Để đón vụ lúa mới, không ít đại lý đã bung tiền ra dự trữ phân bón để kiếm lời. Thế nhưng thị trường phân bón đầu vụ ĐX 2013 - 2014 lại trái chiều với mọi năm, khiến không ít chủ đại lý phải ngậm bồ hòn”. Chỉ trong vòng khoảng 3 - 4 tháng trở lại đây, phân bón các loại đã đồng loạt giảm giá mạnh từ 15 - 20%, được xem là giá phân bón biến động giảm mạnh nhất trong vòng 10 năm nay. Ông Trần Minh Đăng, Chủ cửa hàng VTNN Đăng ở xã Phú Mỹ, huyện Mỹ Tú, Sóc Trăng nói như than: Đầu vụ ĐX này tôi thấy giá phân bón đang giảm mạnh nên đã bỏ tiền ra nhập gần 100 tấn phân về để vào vụ bán cho nông dân. Nhưng không ngờ từ khi nhập phân vào kho đến nay giá cứ ngày một giảm thêm, tính đền thời điểm này bình quân mỗi bao phân tôi hop quy, phan bon npk đang bị lỗ từ 20.000 - 80.000 đ tùy loại”. Thị trường trầm lắng và giá liên tục sụt giảm đã khiến không ít đại lý trữ phân bị lỗ nặng Theo ông Đăng, thông thường vào thời điểm này các đại lý đã nhập phân đầy khó nhưng do năm nay giá phân biến động quá lớn nên chưa ai dám nhập nhiều. Chủ yếu là lấy cầm chừng để bán giữ mối, chờ đến khi nào bà con xuống giống nhiều, nhu cầu phân bón tăng lên thì đại lý mới dám nhập vào đáp ứng theo nhu cầu nông dân. Ông Trương Công Điệu, Chủ đại lý VTNN Tám Điệu, ở xã Tân Thạnh, huyện Thới Lai, TP Cần Thơ cho biết, thị trường phân bón năm nay khác lạ, dù thời vụ đã cận kề nhưng giá cứ đi xuống, loại giảm ít cũng khoảng 40.000 đ/bao, còn loại giảm nhiều tới 50.000 đ/bao. Cụ thể giá phân urê đang ở quanh mức 380.000 - 395.000 đ/bao, giảm trên 100.000 đ/bao; phân NPK, DAP của các Cty giá khoảng 580.000 - 615.000 đ/bao, giảm từ 60.000 - 85.000 đ/bao. Theo ông Điệu, mức giá này chỉ bằng khoảng 2/3 so với thời điểm giá phân cao nhất tại ĐBSCL. Cho đến thời điểm này, đại lý của Tám Điệu cũng chỉ mới nhập vào kho khoảng 50 tấn phân các loại để phục vụ nông dân, trong khi vụ này mọi năm nhập tới 200 tấn phân. Cũng may là nhập ít chứ không thì đã bị thua lỗ nặng. Giá phân khó tăng Các chuyên gia trong ngành phân bón cho rằng, giá phân bón thế giới liên tục sụt giảm trong những năm gần đây là do nguồn cung ngày càng nhiều. Không chỉ nâng công suất, các nước còn đẩy mạnh việc áp dụng công nghệ mới vào SX, giúp hạ giá thành sản phẩm. Theo số liệu của ngành Hải quan, tính đến hết tháng 9, cả nước đã nhập khẩu 3,39 triệu tấn, trị giá 1,28 tỷ USD, tăng gần 22% về lượng nhưng chỉ tăng hơn 6% về giá trị so với cùng kỳ năm ngoái. Điều này cho thấy giá phân nhập khẩu vào Việt Nam từ đầu năm đến năm nay đã giảm khá mạnh. Giá thế giới giảm đã kéo giá phân bón trong nước giảm theo. Cụ thể, giá phân đạm hạt đục do Cty TNHH một thành viên phân bón dầu khí Cà Mau- PVCFC TCty Phân bón và hóa chất dầu khí sản xuất, đang được các đại lý VTNN bán cho nông dân khu vực ĐBSCL ở mức 380.000 đ/bao 50kg, rẻ hơn cả đạm cùng loại nhập khẩu từ Trung Quốc. So với thời điểm giữa tháng 7/2013, giá mỗi bao phân đạm đã giảm hơn 40.000 đ. Chủ đại lý VTNN Ngô Công Sinh ở Tân Hiệp, Kiên Giang cho biết, giá phân bón mấy ngày nay đã có dấu hiệu nhích lên, tuy nhiên hiện giá đạm hạt đục Cà Mau được bán tới tay nông dân hiện chỉ còn 378.000 đ/bao. Đạm Trung Quốc dù có mắc hơn nhưng giá cũng chỉ chênh khoảng 4.000 đ/bao. Ông Trần Hoàng Âu ở xã Trường Xuân, huyện Thới Lai, TP Cần Thơ vừa ra đại lý mua gần 20 bao phân cho 2,5 ha lúa mà cứ hồi hộp: Giá phân vụ này khá mềm, phân urê chưa tới 400.000 đ/bao 50kg, còn phân NPK 20-20-15 và 16-16-8 giá nằm ở mức 530 - 580 ngàn đồng/bao tùy loại. Giá này nông dân đã dễ thở rồi nhưng mua về vẫn thấy hồi hộp, lỡ giá còn giảm nữa thì mình lại mất tiền oan”. Ông Nguyễn Hữu An, Chi cục trưởng Chi cục BVTV An Giang nhận định, vụ lúa ĐX 2013 - 2014 được dự báo vẫn còn không ít khó khăn, thách thức về thiên tai, dịch bệnh cũng như những bất lợi về giá cả và thị trường tiêu thụ lúa gạo. Song, nếu tuân thủ khuyến cáo của ngành nông nghiệp, bà con nông dân chẳng những có được một vụ mùa bội thu, mà còn tiết kiệm được chi phí và giảm đáng kể giá thành sản xuất. Đặc biệt năm nay nước lũ lớn để lại nguồn phù sa dồi dào và tiêu diệt các mầm bệnh. Bên cạnh đó mặt thuận lớn nhất hiện nay giá phân bón trên thị trường đang giảm giá mạnh, giúp người SX giảm nhiều chi phí trong mùa vụ. Vụ ĐX 2013 - 2014, tỉnh An Giang xuống giống 234.000 ha, được chia thành 3 đợt để tập trung né rầy. Ngành nông nghiệp khuyến cáo nông dân nên áp dụng biện pháp sạ hàng, sạ thưa, lượng giống sử dụng không quá 150 kg/ha. Áp dụng các biện pháp canh tác khoa học, tiên tiến vào SX nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm thất thoát, giảm giá thành… Đặc biệt là cần bón phân cân đối, tránh việc lạm dụng khi thấy phân có giá rẻ.. Trong tháng 8/2009, đã nhập khẩu 272 tấn phân Ure, với đơn giá 270 USD/tấn, từ thị trường Trung Quốc qua cửa khẩu Lao Cai Lao Cai, DAF, LC. Tháng 8/2009, đã nhập khẩu 1.300 tấn phân SA, với đơn giá 122 USD/tấn từ thị trường Nga, tại cửa khẩu Cảng Tân cảng Hồ Chí Minh, CFR, LC. Nhập khẩu phân DAP từ thị trường Mỹ trong tháng 8 là 17.265 tấn, với đơn giá 350 USD/tấn, tại Cảng Bến Nghé Hồ Chí Minh, CFR, LC. Sản lượng phân urê trong tháng 8/2009 tuy tăng 0,7% so với tháng 7 nhưng chỉ bằng 96,3% so với tháng 8/2008; tính chung 8 tháng sản lượng phân ure ước đạt 657,1 nghìn tấn, tăng 3,3% so với cùng kỳ; sản lượng phân lân ước đạt 977,1 nghìn tấn, giảm 7,9% so với cùng kỳ; phân NPK ước đạt 1.045,2 nghìn tấn, giảm 8,9% so với cùng kỳ. Trong tháng 8, đã nhập khẩu 180 tấn phân khoáng, đơn giá là 385 USD/tấn từ thị trường Trung Quốc, tại cửa khẩu CK đường sắt LVQT Đồng Đăng. Giá phân bón DAP-FOB Tampa trên thị trường thế giới tuần từ 10-14/8/2009 đạt 319,00 USD/tấn giảm 0,71% so với tuần từ 27-31/7/2009 với mức giá là 321,25 USD/tấn. Giá phân DAP trong tuần đến ngày 31/8/2009 trên thị trương thế giới tiếp tục tăng nhẹ so với tuần trước. DAP Tampa tăng 2 USD/tấn, lên 321 USD/tấn; DAP Nola tăng 3 USD/tấn, lên 282 USD/tấn; DAP Trung Floria ổn định ở mức 270 USD/tấn. Tại Châu Á, nhiều nguồn tin cho biết thương nhân Ấn Độ có thể sẽ tổ chức mời thầu mua Urea trong tháng 9/09. Để có được hợp đồng cung cấp Urea cho Ấn Độ, giá Urea Trung Đông có nhiều khả năng sẽ được điều chỉnh giảm trong tháng 9, do sự cạnh tranh quyết liệt từ sản phẩm Urea Yuzhnyy có giá rẻ hơn. Đại tá Nguyễn Anh Tuấn, Trưởng phòng An ninh kinh tế PA81 Công an TP Hà Nội cho biết, chiều 9/5, đơn vị này đã phối hợp với Đội quản lý thị trường QLTT cơ động số 17, thuộc Chi cục QLTT Hà Nội phát hiện và bắt quả tang vụ sản xuất phân bón NPK giả tại xưởng sản xuất của Công ty CP Đầu tư khoa học kỹ thuật và công nghệ Việt Pháp tại khu tập thể Công trình đường thủy 1, thôn 3 xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Tại thời điểm kiểm tra, ở xưởng này đang sản xuất, đóng gói sản phẩm NPK và vận chuyển lên xe ôtô đưa đi tiêu thụ. Số phân bón tổng hợp NPK thành phẩm giả bị phát hiện khoảng 60 tấn. Theo lời khai của ông Nguyễn Văn Thư, quản đốc tại xưởng nêu trên, cơ sở này bắt đầu sản xuất phân bón giả từ năm 2011 đến nay. Số lượng phân giả NPK bán ra thị trường hàng trăm tấn, chủ yếu bán cho các địa phương lân cận Hà Nội như: Hà Nam , Nam Định, Ninh Bình… Giá bán loại phân NPK giả loại 800.000 đồng/tấn và loại tinh xảo hơn, có nhiều màu sắc với giá 3.200.000 đồng/tấn. Công ty khoán” cho nhân viên bán được hơn hợp quy, phân bón npk thì hưởng, còn bán giá thấp hơn thì phải bù. Để phát hiện, bắt giữ vụ sản xuất phân NPK giả nghiêm trọng này, PA81, Công an TP Hà Nội có sự phối hợp với QLTT lấy mẫu các loại phân NPK giả đã bán ra thị trường, đồng thời tiến hành giám định tại Viện Khoa học hình sự Bộ Công an. Kết quả, các mẫu phân bón giả nêu trên có các thành phần cơ bản chính không đạt yêu cầu như trên vỏ nhãn bao bì mà thành phần chủ yếu là bột đá vôi. Họ chủ yếu canh tác trong môi trường hữu cơ theo hệ thống thủy canh động. Tại Việt Nam nói chung và Lâm Đồng nói riêng, sản xuất các loại cây được nghiên cứu phát triển tốt trong môi trường thủy canh có sử dụng phân bón NPK đã được áp dụng trên cây dâu tây, khoai tây, dưa leo, cà chua, các loại rau xanh cao cấp và một số loại cây cảnh… Dẫn đầu là mô hình vườn thực nghiệm sinh học do ông Phạm Văn Khuê thuộc Trường Đại học Dân lập Yersin phụ trách với quy trình khoa học và đơn giản đối với một số cây cụ thể như sau: Đối với cây rau xà lách, dưa leo: Giá thể thích hợp là hỗn hợp giá thể than bùn và Dasa theo tỷ lệ 2:1. Dasa được sản xuất từ mụn xơ dừa qua quá trình xử lý công nghệ sinh hóa trở thành một loại chất trồng giàu hữu cơ, vi sinh, vi lượng… Mô hình trồng rau thủy canh tại nhà anh Nguyễn Thành Trung, phường 9, thành phố Đà Lạt. Lượng phân bón để bón cho cây xà lách sinh trưởng tốt, đạt năng suất, chất lượng cao là 100kg N, 100kg P2O5 và 75kg K2O cho 1ha. Bón theo phương pháp bón thúc 2 lần vào giai đoạn 5 và 12 ngày sau trồng là thích hợp nhất. Chỉ thu hoạch xà lách ít nhất 8 ngày sau khi bón phân lần cuối để đảm bảo sức khỏe cho người tiêu dùng.Còn lượng phân bón để bón cho cây dưa leo là 132kg N, 121kg P2O5 và 198kg K2O cho 1ha. Chia đều các lần bón theo chu kỳ 8 ngày/lần và chỉ thu hoạch sau 5 ngày bón phân ở lần cuối cùng. Riêng với cây cà chua, giá thể thích hợp cho việc sản xuất là hỗn hợp giá thể than bùn và Dasa theo tỷ lệ 1:1. Lượng phân bón cho cây cà chua sinh trưởng tốt, đạt năng suất, chất lượng cao trên giá thể là 257kg N, 200kg P2O5, 400kg K2O và 24kg Ca cho 1ha. Lưu ý bón phân vô cơ có xu hướng cho hàm lượng nitrat trong quả cao hơn so với phân hữu cơ, do vậy cần chọn các loại phân NPK cho chất lượng quả cao hơn. Bón theo chu kỳ 10 ngày/lần. ThS Phan Hữu Hùng. Dù ngâm nước đã một tuần nhưng loại NPK đặc biệt” vẫn trơ trơ như đá.


II. giấy phép sản xuất phân bón Dấu CR Quacert Trung tâm chứng nhận QUACERT không cấp quyền sử dụng dấu hợp quy không có số


.Hỗ trợ phân bón cho ngông dân Lý Sơn bị thiệt hại do bão số 11. Trong đợt này có 400 hộ dân trên đảo được nhận phân bón hỗ trợ từ công ty mỗi hộ 25kg, trị giá 285.000đồng, để khẩn trương khắc phục hậu quả sau bão tái sản xuất vụ tỏi đông xuân. Tổng giá trị của đợt hỗ trợ là 114 triệu đồng. Ông Lương Anh Tuấn - đại diện lãnh đạo công ty CP phân bón và hóa chất dầu khí Miền Trung cho biết - đây là việc làm thiết thực, nhằm chia sẻ với khó khăn của nông dân trên đảo bị mưa bão làm thiệt hại hoa màu, tài sản. Sau đợt hỗ trợ này công ty sẽ tiếp tục thực hiện chương trình an sinh xã hội tại huyện đảo. Được biết, trong cơn bão số 11 vừa qua, huyện Lý Sơn có trên 150ha hành vụ thu đông bị hư hại, ngoài ra nhiều diện tích đất sản xuất nông nghiệp sản xuất vụ tỏi đông xuân vừa cải tạo xong bị mưa bão cuốn trôi, ước thiệt hại về nông nghiệp trên 31 tỉ đồng. Trên thị trường có nhiều loại mũ bảo hiểm rởm, không đảm bảo chất lượng. Ảnh minh họa/doisongphapluat.com. Lãnh đạo Tập đoàn Quốc tế Năm Sao ký kết hợp tác đầu tư với đối tác Campuchia Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam và được sự quan tâm, ủng hộ của Chính phủ Hoàng gia Campuchia về việc mở rộng hợp tác kinh tế, đầu tư vào Campuchia, ngày 14/8 vừa qua tại thủ đô Phnom Penh diễn ra lễ ký kết, thỏa thuận hợp tác đầu tư giữa các DN Việt Nam và Campuchia bằng 11 hợp đồng kinh tế.Tại đây, Tập đoàn Quốc tế Năm Sao đã ký hợp đồng nguyên tắc với đối tác là Cty Đầu tư Phát triển Campuchia IDCC về việc thành lập Cty Phân bón Quốc tế Năm Sao Campuchia có chức năng XNK- SXKD các loại phân bón với tổng vốn đầu tư 65 triệu USD. Dự án sẽ xây dựng một NMSX phân bón NPK và hữu cơ vi sinh có công suất giai đoạn 1 là 350 ngàn tấn/năm, giai đoạn 2 nâng lên 500 ngàn tấn/năm. Sau khi NM hoạt động sẽ đáp ứng cơ bản nhu cầu phân bón cho toàn bộ nền nông nghiệp Campuchia với giá cả ổn định và chất lượng đảm bảo.Gần đây thương hiệu phân bón Năm Sao đã được bà con nông dân Campuchia biết đến và tin dùng ở rất nhiều địa phương thông qua các chiến dịch tiếp thị, hội thảo của Tập đoàn Quốc tế Năm Sao tại Campuchia. Thủ tướng Hoàng gia Hunsen và các Bộ ngành Campuchia đã đặt niềm tin vào thương hiệu Năm Sao, hy vọng NM Phân bón Năm Sao sớm có mặt góp phần tăng năng suất cây trồng, cải thiện đời sống nông dân Campuchia.Nhận thức được trách nhiệm của DN khi cam kết đầu tư , ông Trần Văn Mười- Chủ tịch HĐQT kiêm TGĐ Tập đoàn Quốc tế Năm Sao cho rằng, dự án không chỉ đơn thuần là việc hợp tác kinh doanh, đầu tư sinh lời mà còn là nhiệm vụ quốc tế nhằm hỗ trợ nước bạn phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Đây là dự án trọng điểm được Chính phủ, các Bộ, ban ngành hai nước giao nên chúng tôi đặt quyết tâm cao nhất để đưa dự án vào hoạt động sớm hơn kế hoạch đề ra”- ông Mười nói.Được biết, NM đặt tại xã Somrongthom, huyện Kean svay, tỉnh Preyvan trên quốc lộ 1A, cách Phnom Penh 40km về phía Tây Ninh – Việt Nam trên diện tích hơn 10ha. Dự kiến thời gian khởi công xây dựng vào quý 4/2009 và chậm nhất sau 20 tháng NM sẽ đi vào hoạt động. Đặc biệt, cự ly vận chuyển phân bón từ NM đến các địa phương của Campuchia rất thuận tiện thông qua việc xây dựng một cảng sông có trọng tải từ 3.000- 5.000 tấn. Đây cũng là tổng kho dự trữ phân bón, các loại vật tư nông nghiệp và nông sản hợp quy, phân bón npk sau này của Tập đoàn Năm Sao. Hiện nay đang vào vụ hè thu nên nhu cầu sử dụng phân bón khá cao, nhất là tại khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Tại Đông Nam bộ và Tây Nguyên, nhu cầu phân bón tăng để phục vụ bón phân cho cây cà phê và cao su. Mặc dù nhu cầu sử dụng phân bón tăng nhưng do nguồn cung dồi dào nên giá phân bón ổn định, không có sự sốt giá và mua hàng cho nhu cầu dự trữ như cùng kỳ năm trước, riêng giá urê vẫn ở mức cao. Tuy nhiên, Bộ Công Thương đưa ra dự báo trong thời gian tới, thị trường phân bón trong nước sẽ có biến động do ảnh hưởng bởi sự biến động của thị trường phân bón quốc tế. Các thị trường lớn như Ấn độ, Trung Quốc được dự báo sẽ tăng giá nhiều loại phân bón đặc biệt là urê phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, Trung Quốc sẽ thực hiện chính sách không khuyến khích xuất khẩu phân bón. Một số doanh nghiệp trong ngành cho biết, hiện nay tình trạng phân bón giả, kém chất lượng gây ảnh hưởng đáng kể đến tình hình tiêu thụ phân bón của các doanh nghiệp sản xuất trong nước. Vì vậy, các ngành chức năng cần tăng cường công tác quản lý thị trường, chống hiện tượng đầu cơ tích trữ, hàng giả, hàng nhái, hàng kém chất lượng; thực hiện việc niêm yết giá và bán hàng theo giá niêm yết tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh.Hằng Trần .


Sản xuất phân bón bình ổn giá thị trường tại Công ty Phú Mỹ. Ảnh: CAO THĂNG/SGGP Theo Hiệp hội Phân bón Việt Nam, hiện nay, nhu cầu phân bón ở Việt Nam khoảng trên 10 triệu tấn các loại, trong đó phân Urea 2 triệu tấn, phân DAP 900.000 tấn, SA 890.000 tấn, Kali 950.000 tấn, phân lân trên 1,8 triệu tấn, NPK 3,8 triệu tấn và khoảng 500.000 tấn phân vi sinh, phân bón lá. Các doanh nghiệp trong nước sản xuất phân Urea đáp ứng nhu cầu và còn dư khoảng 400.000 tấn để xuất khẩu; Phân lân đủ nhu cầu tiêu thụ trong nước; Phân NPK đủ loại, đa dạng; Phân hữu cơ vi sinh, bón lá vẫn còn tiềm năng. Riêng phân DAP cần nhập khẩu khoảng 600.000 tấn/năm và phân Kali phải nhập khẩu 100%. Trong đó, phân NPK và phân Kali là các loại phân dễ bị làm giả, nhái nhãn mác nhất... Theo số liệu của lực lượng quản lý thị trường, trong năm 2012 và 6 tháng đầu năm 2013, đã kiểm tra gần 5.400 vụ, xử lý gần 1.400 vụ, thu phạt hơn 17 tỷ đồng, tịch thu trên 900 tần phân bón các loại, trong đó, các vụ vi phạm có lượng phân bón nhiều như tại Hòa Bình 36 tấn, Yên Bái 225 tấn... Thực trạng thị trường phân bón giả ở Việt Nam tồn tại dưới nhiều hình thức, ông Nguyễn Hạc Thúy - Tổng thư ký Hiệp hội Phân bón Việt Nam cho biết: Khẳng định việc sản xuất phân bón giả, nhái nhãn mác, kém chất lượng... Là do thiếu thể chế trong quản lý, nhất là Nghị định quản lý phân bón vẫn chưa được ban hành, ông Lê Quốc Phong - Phó Chủ tịch Hiệp hội Phân bón Việt Nam, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phân phân bón Bình Điền nói: Phát biểu về việc phối hợp giữa các lực lượng, các bộ ngành trong quản lý phân bón theo Nghị định quản lý phân bón chuẩn bị được ban hành vào cuối năm 2013 này, ông Nguyễn Cẩm Tú - Thứ trưởng Bộ Công Thương cho biết:. Nhà máy gồm một dây chuyền sản xuất phân bón hỗn hợp NPK theo công nghệ tạo hạt bằng hơi nước và u-rê tan chảy. Sau tám tháng thi công, Nhà máy sản xuất phân bón NPK Sao Việt hoàn thành và đi vào hoạt động từ tháng 12 năm 2010. Trong hai tháng đầu năm 2011, nhà máy đã sản xuất 5.000 tấn phân bón NPK và được chào đón, tiếp nhận của thị trường các tỉnh từ Thanh Hóa đến Ninh Thuận và khu vực Tây Nguyên. Quá trình triển khai mô hình, các ruộng được bón phân theo quy trình bón phân khép kín của Công ty Supe Lâm Thao, còn ruộng đối chứng bón theo tập quán bón phân thông thường ở địa phương. Nông dân chăm sóc ruộng ngô. Kết quả thực hiện mô hình trình diễn cho thấy: Năng suất ngô ở ruộng mô hình đạt 260,6 kg/sào, ở ruộng đối chứng đạt 198,7 kg/sào chênh lệch 61,9 kg/ sào. Về chi phí phân bón, chi phí cho ruộng mô hình có cao hơn ở ruộng đối chứng, nhưng năng suất ngô ở ruộng mô hình cao hơn. Do vậy, sau khi trừ chi phí, ngô ở ruộng mô hình cho lãi 490.300 đồng/sào, ở ruộng đối chứng là 331.400 đồng/sào lãi ở ruộng mô hình cao hơn ruộng đối chứng là 158.500 đồng/sào. Toàn bộ số phân bón giả này do ông Trần Văn Sánh buôn bán đã bị lực lượng QLTT thu giữ đưa đi tiêu hủy; ngoài ra, ông Sánh còn phải thực hiện xử phạt vi phạm hành chính với mức 20 triệu đồng. Ngoài ra, tại cửa hàng Hồng Tình do bà Lê hợp quy, phân bón npk Thị Hồng - làng Đắm, xã Ái Thượng, huyện Bá Thước làm chủ, lực lượng QLTT cũng phát hiện 1 tấn phân bón NPK Thành Lợi kém chất lượng. 40 bao phân bón này không đủ hàm lượng các chất dinh dưỡng ghi trên bao bì. Đây là sản phẩm phân bón hỗn hợp 6-8-4 của Cty Thương mại tổng hợp Thành Lợi TP.Thanh Hóa có cơ sở sản xuất tại xã Đông Xuân, huyện Đông Sơn..
Bón phân NPK - S Lâm Thao hợp lý, cây ngô sẽ cho năng suất cao. 1. Một số khái niệm chung Quá trình sinh trưởng, phát triển của ngô chia thành 2 giai đoạn: Giai đoạn sinh trưởng sinh dưỡng: Từ nảy mầm, ra lá đến xuất hiện mô ở các cơ quan sinh sản. + Thời kỳ nảy mầm từ gieo đến 3 lá thật: - Phụ thuộc nhiều vào chất dinh dưỡng của nội nhũ. - Sau khi có 3 lá thật, lượng dinh dưỡng có trong nội nhũ hạt, cây non chuyển từ sống nhờ dinh dưỡng trong hạt sang tìm kiếm thức ăn từ đất và dinh dưỡng bổ sung. + Thời kỳ từ 3 lá đến phân hóa hoa: Cây ngô cần độ ẩm đất từ 65 – 75%, tơi xốp, đủ oxy cho rễ phát triển… cần đủ dinh dưỡng. Bón thúc kịp thời ở giai đoạn 3 – 4 lá. Giai đoạn sinh trưởng sinh thực: Lá và cơ quan sinh sản phát triển mạnh – xuất hiện nhị cái. + Thời kỳ phân hóa hoa – trỗ cờ: Cây ngô lớn nhanh, phân hóa tạo các bộ phận hoa cờ và bắp – quyết định năng suất ngô. Lá và đốt phát triển nhanh – cuối giai đoạn thoát bông cờ khỏi bẹ lá. Cần bón thúc, kết hợp xới đất và vun luống lên cao cho ngô. + Thời kỳ nở hoa trỗ cờ, tung phấn, phun râu: Diễn ra trong khoảng 10 – 15 ngày, ngô lai tập trung trong khoảng 7 – 10 ngày. Ngô tung phấn, nhận phấn, thụ tinh. Nhiệt độ thích hợp 22 – 28oC, nhiệt độ <13oc và="">35oC hạt phấn mất sức sống và chết. Độ ẩm không khí thích hợp là 80%, độ ẩm đất thích hợp 80% độ ẩm bão hòa. + Thời kỳ chín thụ tinh đến chín: Thời kỳ này kéo dài 30 – 45 ngày tùy từng giống, trong đó: - Chín sữa 10 – 15 ngày, - Chín sáp 10 – 15 ngày, - Chín hoàn toàn 10-15 ngày. Thời kỳ chín, các chất dinh dưỡng vận chuyển từ lá vào hạt; vai trò quang hợp của bộ lá vẫn quan trọng, 60 – 80% sản phẩm quang hợp từ lá vận chuyển vào hạt; yêu cầu nhiệt độ của thời kỳ này là 20 – 25oC, ẩm độ đất là 60 – 70% độ ẩm bão hòa. 2. Đất và thời vụ trồng ngô 2.1 Đất trồng ngô Cây ngô thích nghi với nhiều loại đất khác nhau, nó có thể trồng được trên đất feralit và feralit mùn trên núi cao như ở Quản Bạ, Hà Giang. Ngô sinh trưởng tốt và cho năng suất cao trên đất đen đá vôi cao nguyên Nà Sản, Mộc Châu, Sơn La, ngô cũng cho năng suất cao trên đất phát triển trên đá bazan ở Đăk Lăk. Ở đồng bằng, ngô có thể trồng được và cho năng suất cao trên phù sa sông, đất bạc màu, đất phèn sau 2 vụ lúa. Nhiều diện tích ngô được trồng trên đất bãi bồi ven sông. 2.2 Giống và thời vụ trồng Ngô phân bố rộng trên phạm vi toàn quốc, tùy theo điều kiện khí hậu mà thời vụ gieo trồng ngô khác nhau ở các vùng, song chủ yếu có các vụ chính là: đông xuân, xuân hè và thu đông. 2.2.1. Giống ngô Giống ngô được phân theo 6 nhóm giống: Giống ngô tự thụ phấn, giống ngô lai quy ước, giống ngô lai không quy ước, ngô nếp, ngô đường và ngô rau. Mỗi giống có thời gian sinh trưởng khác nhau ở các vụ trồng trong năm. Dưới đây là một số giống ngô đang được trồng phổ biến hiện nay trong vụ đông với thời gian sinh trưởng như sau: - Nhóm giống ngô tự thụ phấn: - Nhóm giống ngô lai quy ước. - Nhóm giống ngô không quy ước. - Nhóm giống ngô nếp. - Nhóm giống ngô đường. - Ngô rau. 2.2.2. Thời vụ gieo trồng ngô đông - Vụ thu gieo vào cuối tháng 7 đầu tháng 8. - Vụ thu đông ở miền núi nên gieo trước 25.8 để có năng suất cao. - Vụ đông nên kết thúc trồng trước ngày 30.9 chậm nhất đến 5.10 đối với giống ngắn ngày. Đối với vụ đông ở phía Bắc nếu gieo sau 20.9 thì phải làm bầu. 3. Lượng phân bón NPK-S Lâm Thao cho ngô đông bảng. Để đảm bảo cho sản xuất vụ hè thu và bình ổn giá trên thị trường, Nhà máy Phân đạm Phú Mỹ sau khi nghỉ bảo dưỡng định kỳ đã hoạt động trở lại vào ngày 25/4/2008 nên sản lượng phân urê tháng 5 ước đạt 84 nghìn tấn, tăng 64,7% so với tháng 4. Riêng Tổng công ty Hóa chất, trong tháng 5, sản xuất phân lân ước đạt 128 nghìn tấn, tăng 4,1% so với cùng kỳ; phân NPK ước đạt 184 nghìn tấn tăng 20,3% so với tháng 4/2007. Nhìn chung sản xuất phân bón trong nước cơ bản đảm bảo cung cầu cho vụ hè thu.HNM. Như vậy, tính đến hết tháng 7/2009, nhập khẩu phân bón đạt 2,47 triệu tấn với trị giá 810,8 triệu USD, tăng 5,29% về lượng tuy nhiên về kim ngạch lại giảm mạnh 27,97% so với cùng kỳ. Tháng 7/2009, nhập khẩu hầu hết các chủng loại phân bón đều giảm khá so với tháng 6/2009, trong đó, phân Ure giảm mạnh nhất, giảm tới 28,48% veè lượng và 33% về trị giá, còn nếu so với cùng kỳ tháng 7/2008 thì lượng Ure nhập về trong tháng 7/2009 lại tăng mạnh 89,99% về lượng và 17,15% về trị giá, đạt 71,8 ngàn tấn trị giá 19,9 triệu USD. Giá nhập khẩu trung bình chủng loại này trong tháng đạt 278 USD/tấn, giảm 19 USD/tấn so với tháng 6, và giảm 38,39% so với cùng kỳ 2008. Tính chung 7 tháng năm 2009, nhập khẩu Ure đạt 768 ngàn tấn trị giá 231 triệu USD, tăng 36,49% về lượng và tăng 5,4% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Nhập khẩu phân DAP trong tháng 7 cũng giảm khá mạnh xuống còn 66,52 ngàn tấn trị giá 23,97 triệu USD, giảm 13,15% về lượng và 14,53% về trị giá so với tháng trước. Giá nhập khẩu trung bình đạt 360 USD/tấn, giảm 6 USD/tấn so với tháng trước, mức giá này chỉ bằng 29% mức giá trung bình nhập về cùng kỳ năm ngoái. Tính chung 7 tháng năm 2009, nhập khẩu phân DAP tăng mạnh 71,12% về lượng, tuy nhiên về trị giá lại giảm tới 25,75% so với cùng kỳ năm ngoái. Chủng loại phân bón nhập khẩu tháng 7, 7 tháng năm 2009:Chủng loại Tháng 7/2009 7 tháng năm 2009 So với 7 tháng năm 2008 Lượng tấn Trị giá USD Lượng tấn Trị giá USD % lượng % trị giá Phân bón 246.137 85.192 2.477.610 810.864 5,29 -27,90 Phân Ure 71.830 19.985 768.109 231.188 36,49 5,40 Phân NPK 10.133 3.986 185.248 77.361 25,62 -4,66 Phân DAP 66.521 23.979 580.421 227.374 71,12 -25,75 Phân SA 45.803 5.722 662.477 94.534 39,47 -23,25 Loại khác 37.568 25.834 229.331 153.375 -72,33 -61,15 Trong tháng 7/2009, Trung Quốc vẫn là thị trường nhập khẩu phân bón chính của Việt Nam và lượng nhập tăng mạnh, với 34% về lượng và 26,14% về trị giá so với tháng 6/2009. Tính chung 7 tháng năm 2009, nhập khẩu phân bón từ thị trường đạt 160,7 ngàn tấn với trị giá 48,33 triệu USD, tăng 2 lần về lượng, 51,16% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. Chủng loại phân bón nhập khẩu từ thị trường Trung Quốc chủ yếu là DAP, SA, Urea và Kali. Giá nhập khẩu trung bình các chủng loại này đều giảm khá so với tháng 6, cụ thể, SA là 118 USD/tấn, giảm 15%; Kali 528 USD/tấn, giảm 12,8%; Urea 273 USD/tấn, giảm 2,51%; DAP ổn định ở mức 364 USD/tấn. Tính đến hết tháng 7/2009, nhập khẩu phân bón từ thị trường này đạt 885 ngàn tấn trị giá 286,8 triệu USD, giảm 29,35% về lượng và 52,8% về trị giá so với cùng kỳ năm ngoái. InfoTV. Trước đó Đội Quản lý thị trường số 4 kiểm tra, phát hiện trong kho của công ty này có 1.000 bao loại 50 kg/bao được đóng gói mang nhãn hiệu phân bón NPK của Công ty TNHH sản xuất và thương mại Hoàng Long Vina. Tại thời điểm kiểm tra, trên bao bì sản phẩm hợp quy, phân bón npk này không ghi hàm lượng, thành phần phân bón, ngày sản xuất và hạn sử dụng. Lực lượng chức năng đã tạm giữ toàn bộ lô hàng và lấy mẫu gửi đến Trung tâm phân tích và kiểm nghiệm Bình Định kiểm nghiệm với kết quả không phải là phân NPK. Chủ doanh nghiệp này thừa nhận trong bao đựng bột diatomit, do doanh nghiệp tự xay, nghiền, đóng bao để giao cho một đối tác ở TP.HCM và số bao bì mang nhãn hiệu của Công ty Hoàng Long Vina là do đối tác này cung cấp. Hiện vụ việc đang được các cơ quan chức năng tỉnh Phú Yên làm rõ. Đức Huy .


III. Với Cty CP đầu tư thương mại ôtô quốc tế và Cty CP truyền thông OXY do đơn vị mới được cấp giấy hợp quy cuối năm 2012 nên chưa tổ chức sản xuất và chưa có sản phẩm hợp quy cung cấp cho thị trường


Tên khoa học là Penniseyum purpureum sp. Gồm có: Pennesetum pupureum Kingrass, P.p. Selection, P.p. Malagasca. Ngoài ra còn gọi theo một số tên khác như cỏ Napier, Gigante Costa Rica hay Mfufu Châu Phi. Cây cỏ voi có nguồn gốc tại Nam Phi, phân bố rộng ở các nước nhiệt đới trên thế giới. Quê hương lâu đời của cỏ voi là Uganda 10 o vĩ độ Bắc-20 o vĩ độ Nam. Cỏ Voi được nhập vào Australia 1914, Cuba 1917, Brasil 1920, Mỹ từ 1993, …ở Việt Nam cỏ Voi còn được gọi là cỏ Huế vì lần đầu tiên vào năm 1908 cỏ Voi được đưa từ Huế đưa ra Bắc. Hiện nay cỏ Voi đã được trồng ở nhiều nơi trên cả nước Viện Chăn nuôi, Trung tâm nghiên cứu Dê và Thỏ Sơn Tây, Trung tâm Nghiên cứu Bò và Đồng cỏ Ba Vì, Nông trường bò sữa Đức Trọng, Nông trường bò sữa Phù Đổng…Khu vực gia đình: các hộ nông dân nuôi bò sữa vùng Hà Nội, vùng thành phố Hồ Chí Minh, vùng Ba Vì, vùng miền núi phía Bắc…. Đây là một trong những giống cỏ cho năng suất cao nhất trong điều kiện thâm canh ở Việt Nam. 2. Đặc điểm sinh trưởng Là loại cỏ trồng lưu niên, thích hợp trên đất ẩm ướt, bìa rừng và các loại đất trồng trọt ở hầu hết các nước vùng nhiệt đới, nhiệt độ tối cao cho cỏ sinh trưởng là 25-40 o C và tối thấp là 15 o C, tốt nhất là 21-28 o C. Thân cỏ mọc thẳng đứng, có thể cao từ 1,8 m đến 3,6 m. Các nhánh luôn mọc hướng về phía trên. Phiến lá rộng 20-40 cm và bẹ lá không có lông, mép lá dày và sáng bóng. Cỏ voi vẫn có thể sinh trưởng tốt trên độ cao 2000 m so với mặt biển. Cỏ sinh trưởng chính vào các tháng mùa mưa khi nhiệt độ và ẩm độ cao. Cỏ voi cần một lượng nước rất cao và trồng thích hợp ở những vùng có lượng mưa khoảng 1.500 mm. Khi lượng mưa không đạt trên 1000 mm thì cần thiết phải tưới nước bổ sung cho cây phát triển. 3. Thời vụ trồng Thời vụ gieo trồng có thể vào các tháng mùa mưa: từ tháng 4 đến tháng 9 trong năm nhưng tốt nhất trồng vào tháng 4, 5, 6 đầu mùa mưa. 4. Làm đất khoảng cách trồng Cỏ có thể chịu được khô hạn vì có bộ rễ khỏe và ăn sâu nhưng không chịu được đất có bùn, ngập úng và đất mặn. Đất trồng cỏ voi tốt nhất ở loại đất thấp có độ ẩm cao hơn một số cây cỏ trồng khác, có tầng canh tác dày, tơi xốp và hàm lượng mùn cao, pH=6-7 là tốt nhất. Có thể duy trì tuổi thọ của thảm cỏ voi 5-8 năm cho nên việc chuẩn bị đất trồng cỏ cần được quan tâm. Đất trồng cỏ có thể được cày bừa kỹ bằng máy, cầy bằng trâu bò đảo lại 2 lần với độ sâu 20-25 cm, tiếp theo là làm tơi và san phẳng mặt ruộng bằng bừa đĩa hoặc bừa thủ công sau rạch hàng để gieo hạt. Phân bón lót được trộn đều với đất và rải đều trong lòng rãnh hàng trước khi trồng, hom giống được đặt theo lòng rãnh tại độ sâu ít nhất là 15 cm so với bề mặt đất và đầu hom sau đặt kế tiếp vào đuôi của hom trước. Sau đó lấp kín hom giống bằng một lớp đất dày khoảng 7,5 cm, san phẳng bề mặt rãnh trồng và dần lấp đầy rãnh khi cây sinh trưởng. 5. Bón phân NPK-S Lâm Thao cho cỏ Voi Yêu cầu phân bón cho cỏ voi trồng: tùy thuộc vào loại đất đai và phương thức trồng thâm canh hay quảng canh mà số lượng phân bón khác nhau. Cỏ voi có năng suất rất cao 100-500 tấn chất xanh/năm, hàm lượng vật chất khô trong 1 kg chất xanh trung bình 18-25%, hàm lượng N trong lá 7-10%. Cỏ voi phản ứng rất tốt với tỷ lệ N cao đặc biệt năm thứ 3 và năm thứ 4 khi mà hàm lượng nitơ trong đất trồng bị cỏ voi hút cạn kiệt. Liều lượng và thời kỳ bón phân NPK-S Lâm Thao cho nhóm cỏ voi Loại phân Bón lót, Kg Bón thúc sau trồng 10-12 ngày, kg Bón thúc giai đoạn thu hoạch Số lần bón/năm kg/lần Tính cho 1 ha Phân chuồng 15.000-30.000 Phân NPK-S 5.10.3-8 300- 400 Phân NPK-S 10.5.5 250-300 6-8 350-400 Tính cho 1 sào Bắc Bộ 360 m 2 Phân chuồng 500-1.100 Phân NPK-S 5.10.3-8 11-15 Phân NPK-S 10.5.5 9-12 6-8 13-15 Trong khoảng phân bón giới thiệu ở bảng thì tùy điều kiện canh tác mà áp dụng cho thích hợp: nếu trồng thâm canh hoặc đối với đất nghèo dinh dưỡng thì bón mức cao và nếu trồng quảng canh hoặc đất tốt thì bón mức thấp. Bắt đầu từ thời kỳ thu hoạch, số lần bón và lượng bón tính cho 1 năm cũng được giới thiệu ở bảng. Chúc bà con nông dân sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao cho nhóm cỏ voi hợp lý để đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao. Ảnh minh họa. Theo đó, trong khi xem xét, phân loại và áp dụng thuế suất đối với mặt hàng phân bón NPK có bổ sung trung, vi lượng, để không ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của DN trong điều kiện kinh tế khó khăn hiện nay, Tổng cục Hải quan đề nghị Cục Hải quan các tỉnh, thành phố, tạm thời chưa thực hiện ấn định thuế với mặt hàng phân bón NPK có bổ sung trung, vi lượng, đăng ký với cơ quan Hải quan trước ngày 16-4-2012 đã phân loại theo mã số 3105.90.00.00, thuế suất thuế NK ưu đãi 0% cho đến khi Bộ Tài chính có quyết định cuối cùng. Trước đó, trong tháng 3- 2013, Tổng cục Hải quan đã có công văn hướng dẫn Công ty TNHH YARA Việt Nam và Công ty TNHH TM Hoàng Lê phân loại mặt hàng phân bón NPK có bổ sung trung vi lượng. Mặt hàng phân bón NPK có hoặc không bổ sung trung vi lượng ở dạng viên hoặc các dạng tương tự hoặc đóng gói trong bao bì với trọng lượng cả bì không quá 10 kg, thuộc phân nhóm 3105.10.00, mã 3105.10.00.20, thuế suất NK ưu đãi 6%. Mặt hàng phân bón NPK có hoặc không bổ sung trung vi lượng loại khác thuộc mã số 3105.20.00.00, thuế suất thuế NK ưu đãi 6%. Như vậy, với những DN đã khai báo mặt hàng này với thuế suất 0% sẽ có thể bị truy thu thuế NK. Tuy nhiên, với tình hình kinh tê khó khăn như hiện nay, để tránh gây khó khăn cho DN thì Bộ Tài chính đang cân nhắc phương án giải quyết vấn đề này. T.Tr. DN phân bón thăm dò thị trường Đầu năm đón tin vui NM đạm Cà Mau đi vào hoạt động hòa nhịp cùng các NMSX phân bón trong nước, đánh dấu từ đây nước ta sẽ hoàn toàn chủ động nguồn cung cấp phân đạm cho nông dân. Hop quy, phan bon npk Trong khi đó, tưởng chừng các NMSX phân NPK sẽ thuận lợi, nhưng hoàn toàn bất ngờ khi ở ĐBSCL, đầu ra sản phẩm của loại phân này đang trong tình trạng vàng thau lẫn lộn. Cá bé bao vây cá lớn Điều dễ nhận ra sự hấp dẫn ở vùng SX lúa lớn nhất nước là có diện tích có thể thâm canh 3 vụ, có vườn cây ăn trái, vùng trồng rau màu, cây công nghiệp…nên thu hút mạnh mẽ các nhà SX-KD phân bón. Mỗi năm, khởi đầu từ vụ lúa ĐX trong vùng thu hoạch, các DN rải nhân viên kinh doanh rà khắp các đại lý chuẩn bị đưa hàng về. Tuy nhiên năm nay điều khác thường xảy ra với mặt hàng NPK. Một lãnh đạo kinh doanh phân bón ở ĐBSCL đã trực tiếp xuống các đại lý xem tình hình mua bán. Sau khi đi một vòng từ Đồng Tháp qua An Giang, Kiên Giang về Bạc Liêu, Cần Thơ ông thở dài: Phân bón các DN thuộc hàng thương hiệu tiếng tăm được nông dân tin dùng nhiều năm qua đang bị các DN nhỏ như tép con xé nát thị phần. Đầu năm đến nay chúng tôi bán ra chỉ hơn 1.000 tấn phân NPK, giảm 2/3 sản lượng so cùng kỳ năm ngoái. Trong khi đón đầu vụ lúa HT, hàng NPK của các DNSX, chủ yếu là phân trộn, rất cơ động, linh hoạt, sẵn sàng cho tàu, xe đưa hàng xuống tới giao đại lý cấp 2, cửa hàng bán lẻ. Lẽ dĩ nhiên giá bán rẻ hơn 2.000 đ/kg so với các DN lớn có thương hiệu. Đơn cử như loại phân thông dụng NPK 20-20-15 giá 14.000 đ/kg, các DN nhỏ SX ra với đủ loại nhãn hiệu khác nhau chỉ bán ra chừng 12.000 đ/kg, tính ra rẻ hơn 70.000- 100.000 đ/bao 50 kg. Một cán bộ của DN có NMSX phân NPK có sản lượng lớn tại ĐBSCL thừa nhận trong tình hình vốn vay đã khó, nguồn nguyên liệu tuy dồi dào, không lo, nhưng vẫn lo nhất là khâu tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay có DN tồn kho và ế hàng. Tình hình này khiến nhiều DNSX chậm lại và nếu không mở được đầu ra XK sẽ đứng trước nguy cơ SX đình đốn. Dễ làm như… NPK Theo các chuyên gia trong ngành, ưu điểm phân bón NPK là có nhiều tỉ lệ dinh dưỡng phù hợp với từng loại cây trồng, từng loại đất và từng vùng khí hậu khác nhau. Lâu nay không thể phủ nhận việc SX phân bón NPK đã góp phần rất lớn vào sự phát triển nông nghiệp nước nhà. Tuy nhiên, thực trạng SX- KD hiện đáng lo ngại. Có thể nói chưa lúc nào lại có nhiều đơn vị SX phân bón NPK như hiện nay. Dân chuyên kinh doanh phân bón kể: Quanh các tỉnh miền Tây có trên 30 nhãn hiệu phân bón NPK mới lạ. Là người có thâm niên trong nghề đôi khi phải ngỡ ngàng trước một nhãn hiệu phân bón NPK lạ lẫm mới xuất hiện. Như vậy người nông dân sẽ chọn lựa như thế nào? Nhất là đứng trước trào lưu SX phân bón NPK theo dạng phân trộn của các đơn vị nhỏ lẻ, chỉ sau một vài năm nay đã nở rộ lên như nấm sau mưa. Gần đây hơn một số DN trước đây chỉ thuần kinh doanh nay bỗng dưng nhảy sang đăng ký SX phân bón, chủ yếu đua nhau SX hàng trộn NPK. Chỉ tính ở một số tỉnh từ Tây Ninh đến Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Đồng Tháp, Vĩnh Long… tỉnh nào cũng có DNSX phân bón NPK, thậm chí ở một tỉnh còn có từ 2- 3 đơn vị SX loại phân này. Trên thị trường, tên tuổi những DN quen thuộc như: Bình Điền, Việt Nhật, Baconco, Năm Sao, Hiệp Phước… nay gặp thêm nhãn hàng: Con Nai Vàng, Máy Cày, Ba con cò Vàng, Sen Hồng Huệ Liên, Hiệp Thanh, Hưng Thịnh, Mầm Xanh, Mùa Vàng… Vấn đề đặt ra là nếu chất lượng sản phẩm đảm bảo, giá cả cạnh tranh sẽ là mặt tích cực và có lợi cho nông dân. Tiếc rằng chính vì sự đa dạng của các loại sản phẩm vô hình trung đẩy nông dân lạc vào mê hồn trận của phân bón NPK. Hiện nay lo âu nhất khi nhiều địa phương cảnh báo liên tục tình hình phát hiện phân bón kém chất lượng. Nông dân là người chịu thiệt sau cùng và dư luận không khỏi hoài nghi các loại phân bón mới đang được quản lý và kiểm tra như thế nào? Một DN trong ngành hàng này nhận xét: Muốn đầu tư SX phân bón điều kiện cơ bản phải có NM, phòng thí nghiệm đủ tiêu chuẩn kiểm nghiệm nguyên liệu đầu vào, kiểm tra chất lượng sản phẩm đầu ra; có cán bộ chuyên ngành nông học, hiểu biết về cây trồng, phân bón và kho tàng đủ điều kiện bảo quản phân bón. Tuy nhiên do quan niệm tạo điều kiện thông thoáng trong việc khuyến khích đầu tư và sự phối hợp chưa đồng bộ của các cơ quan chức năng, DN chỉ cần đăng ký kinh doanh, thậm chí có DN chưa đủ điều kiện SX, không máy trộn, thậm chí có nhà sản xuất” chỉ trộn bằng cuốc, xẻng vẫn vô tư SX NPK. Đây là nguyên nhân dẫn đến chất lượng không đảm bảo. Cần chấn chỉnh Hiện nay nước ta chủ động nguồn SX phân đạm Urê ổn định theo dự báo tổng sản lượng 2,6 triệu tấn/năm. Phân DAP cân đối SX 50% trong nhu cầu cả nước khoảng 650.000- 700.000 tấn/năm. Phân lân SX gần 1,7 triệu tấn, cân đối 80% nhu cầu và phân kali nhập khẩu khoảng 700.000 tấn/năm. Trong đó ĐBSCL nhu cầu phân đạm khoảng 800.000 tấn/năm; DAP 350.000 tấn/năm; NPK 650.000- 700.000 tấn/năm. Nguồn phân bón năm 2012 cung cấp dồi dào và dự báo giá cả tương đối ổn định. Ở một góc khác, phân hữu cơ theo xu hướng phát triển nông nghiệp bền vững để giải quyết vấn đề chống bạc màu, cải thiện điều kiện dinh dưỡng của đất. Song, cho đến nay việc sử dụng phân hữu cơ vẫn còn bị bỏ ngỏ và chiếm chưa tới 10% so với phân hóa học. Trong khi đó một nhà SX phân bón NPK tại Cần Thơ cho rằng: Xu hướng dùng phân NPK một màu SX bằng công nghệ hơi nước đang tăng tỷ trọng tiêu dùng đạt 50/50 so với phân đơn NPK. Nhiều nông gia đại điền” tin tưởng và chọn dùng không ngại giá cả. Trong khi nông dân mua trả chậm, mua giá phân giá rẻ từ đại lý lại gặp hẹp cửa chọn lựa. Thị trường SX- KD phân bón NPK đang đứng trước bối cảnh biến động. Nông dân chấp nhận bỏ tiền ra mua phân bón, bằng cách nào để nông dân không chịu thiệt thòi vì gặp phải hàng kém chất lượng, các cơ quan chức năng quản lý Nhà nước cần tăng cường biện pháp quản lý trong lĩnh vực SX- KD và kiểm tra chất lượng sản phẩm từ trong quá trình SX đến lưu thông trên thị trường. Mặc dù chịu sự cạnh tranh gay gắt của các sản phẩm phân bón cùng loại trong nước cũng như nhập khẩu, sản xuất phân bón chịu ảnh hưởng trực tiếp mùa vụ nông nghiệp chủ yếu là vụ đông xuân và hè thu… nhưng Công ty cổ phần supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao vẫn ổn định sản xuất. Trong 6 tháng đầu năm, Công ty cổ phần supe phốt phát và hóa chất Lâm Thao đã tiêu thụ trên 256.000 tấn supe lân, hơn 468.000 tấn NPK, 3.300 tấn axít sunphuríc, trên 27.200 tấn lân nung chảy. Doanh thu tiêu thụ đạt trên 3.100 tỷ đồng và đảm bảo việc làm ổn định cho 2.850 người với mức thu nhập bình quân 7,6 triệu đồng/người/tháng. Ông Nguyễn Duy Khuyến cũng kiến nghị các cơ quan chức năng tăng cường quản lý chất lượng hàng hóa, nhất là kiểm soát chặt chẽ không để hàng nhái, hàng giả, hàng kém chất lượng lưu thông trên thị trường, làm mất lòng tin của người tiêu dùng và ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp. Viết Tôn ..
Theo Bộ Công Thương, Nhà máy đạm Cà Mau hiện đã hoạt động ổn định và sẽ chạy hết công suất 800.000 tấn/ năm, đồng thời trong tháng 7, Nhà máy đạm Ninh Bình công suất 560.000 tấn/ năm chính thức có sản phẩm thương mại. Nhờ nguồn cung này, thị trường phân bón, nhất là phân đạm ure trong quý III sẽ ổn định. Trong 6 tháng vừa qua, sản lượng phân đạm đạt 734,3 nghìn tấn tăng 59,7% so với cùng kỳ, phân NPK do Tập đoàn Hóa chất sản xuất đạt 886,784 nghìn tấn, phân lân đạt 919,954 nghìn tấn, tăng 0,1%, phân DAP đạt 129,762 nghìn tấn, tăng 18,1%. Thị trường phân bón trong nước tương đối ổn định, giá các loại phân bón biến động không nhiều. Tổng Công ty Phân bón và Hóa chất dầu khí thuộc Tập đoàn Dầu khí quốc gia Việt Nam, đơn vị chiếm thị phần lớn trên thị trường phân bón đã tổ chức chương trình bán hàng trực tiếp tới bà con nông dân tại một số điểm nóng” thuộc các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh và Quảng Bình. Vì vậy, chương trình đã kịp thời đáp ứng nhu cầu mùa vụ, đảm bảo kiểm soát được lượng hàng bán với giá hợp lý, hạn chế tình trạng găm hàng, đẩy giá cao hơn mức giá của Công ty quy định. Chương trình này sẽ được mở rộng tại một số điểm có nhu cầu tiêu thụ phân bón lớn trên cả nước. Linh Đan. Ông Nguyễn Duy Khuyến - Tổng giám đốc Công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao Để giúp nông dân làm giàu, trong thời gian tới, công ty đã thực hiện cơ chế bán phân bón trả chậm cho một số địa phương nhằm giúp bà con nông dân có điều kiện đầu tư, chăm sóc cây trồng, góp phần xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới. Tiếp tục triển khai nhiều mô hình cây trồng và phân bón hiệu quả về cho nông dân sản xuất. Về tình hình sản xuất lúa vụ mùa, bà Nguyễn Thị Thoa - Trưởng phòng Trồng trọt Sở NNPTNT Hà Nội cho biết: Thời tiết thuận lợi, thỉnh thoảng lại có mưa làm cho không khí dịu mát, nước đủ, mạ non nên lúa bén rễ hồi xanh rất nhanh. Trà lúa cấy sớm từ 15 – 20.6 đã bắt đầu đẻ nhánh, do vậy sau cấy 10 ngày cần bón thúc và cào cỏ cho lúa. Đất trồng lúa chủ yếu là đất chua nên loại phân bón phù hợp là phân đa yếu tố NPK Văn Điển. Bón phân này giúp cây lúa tốt bền khỏe mạnh, ngoài giúp tăng năng suất và chất lượng còn làm cho cây lúa cứng cây chống đổ và hạn chế bệnh bạc lá thường gây hại nhiều trong vụ mùa”. Phân đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên dùng cho lúa có 2 loại: Phân bón lót và phân bón thúc. Loại phân bón lót NPK 6.11.2: 1 sào bón 20kg, bón trước khi bừa cấy hoặc bón xong cào một lượt trước khi cấy. Bón phân phải vùi sâu vào trong đất để rễ dễ hấp thu được phân bón và đỡ mất phân vì bón trên mặt ruộng thì phân đạm và kali hòa tan nhanh với nước, thời tiết nắng nóng, hay có mưa rào sẽ khiến phân bị bốc hơi và rửa trôi. Bón lót cũng không sợ mất phân vì khi bừa hoặc cào ruộng phân được vùi sâu, có tác dụng giữ phân rất tốt. Phân đa yếu tố NPK Văn Điển 6.11.2 có thành phần các chất dinh dưỡng cao, với tỷ lệ nhiều lân P2O5: 11% phù hợp hợp quy, phân bón npk với giai đoạn đầu cây lúa cần nhiều lân để thúc đẩy phát triển bộ rễ và đẻ nhánh. Tỷ lệ canxi CaO cao: 20%, có tác dụng cải tạo đất chua và giúp phân hủy nhanh rơm, rạ chưa kịp mục nát vì vụ mùa gặt lúa xuân xong làm đất vội và cấy ngay. Ông Đỗ Xuân Quân - Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Thanh Oai chia sẻ: Diện tích lúa đã cấy vụ mùa đa số được bón lót bằng phân đa yếu tố NPK Văn Điển, nhất là những diện tích đồng trũng. Qua từng vụ, diện tích sử dụng phân Văn Điển ngày càng tăng vì nông dân thấy cây lúa tốt bền, đẻ nhánh khỏe, khi thu hoạch cây óng, vàng lá gừng nên lúa đẫy hạt, sáng quả, năng suất cao”. Có phân tốt nhưng phải bón đúng kỹ thuật mới đem lại hiệu quả, vì theo đánh giá của các nhà kỹ thuật thì hiện nay trong thâm canh lúa khâu làm sai nhất, gây lãng phí nhất là sử dụng loại phân bón và cách bón không thích hợp. Do nhiều năm qua đa số nông dân Hà Nội đã làm quen với phân Văn Điển và qua nhiều lớp tập huấn hướng dẫn sử dụng phân bón NPK Văn Điển do công ty phối hợp với Trung tâm Khuyến nông tổ chức, nên nhìn chung bà con đã bón phân đúng cách. Ông Mai Trung Trực - Chủ nhiệm HTX Dân Hòa, huyện Thanh Oai cho hay: HTX bắt đầu cấy từ 22.6, đến nay cơ bản đã cấy xong 364ha lúa. Nhiều vụ qua, khoảng 70% diện tích lúa của HTX được bón NPK Văn Điển. Vụ mùa này hầu hết diện tích lúa đã bón lót phân NPK Văn Điển 20kg/sào. Hiện nay lúa trà đầu đã đẻ nhánh nên HTX chỉ đạo cần bón thúc ngay 7 - 8kg phân NPK Văn Điển 1 sào”. HTX Đông Phương Yên Chương Mỹ mới làm quen với phân NPK Văn Điển từ năm 2013, nhưng đã có 1/3 diện tích lúa vụ mùa này được bón lót phân NPK Văn Điển. Ông Đỗ Văn Dũng - Chủ nhiệm HTX cho hay: Đa số nông dân đã bón phân lót và phân thúc đúng kỹ thuật, nhưng vẫn còn một số hộ do sợ mất phân nên không bón lót, cá biệt vẫn còn diện tích bón thúc muộn: Lúa mùa sau cấy 15 - 20 ngày mới bón thúc. Thời gian này ban quản lý HTX thường xuyên tuyên truyền, phổ biến trên loa truyền thanh để khuyến cáo bà con sử dụng phân NPK Văn Điển và bón đúng kỹ thuật”. Còn ông Nguyễn Duy Nam - Trạm trưởng Trạm Khuyến nông huyện Chương Mỹ cho biết: Vụ xuân vừa qua thời tiết âm u kéo dài nên bón phân NPK Văn Điển cho lúa càng phát huy hiệu quả vì trong phân có magiê giúp cây lúa tăng cường khả năng quang hợp. Ngoài ra phân còn có silic tăng khả năng kháng sâu bệnh, nên diện tích lúa bón phân NPK Văn Điển bệnh bạc lá giảm hẳn. Với kết quả như vậy nên diện tích bón phân NPK Văn Điển vụ mùa này tăng lên nhiều”. Bón phân đa yếu tố NPK Văn Điển chuyên dùng loại bón lót và bón thúc cho lúa đủ số lượng sẽ không phải bón thêm một loại phân bón nào khác. Tính ưu việt của phân NPK Văn Điển bón cho lúa là lúa lên chậm nhưng tốt bền, thân lá màu xanh sáng, thoáng cây, đẻ nhánh khỏe, tỷ lệ bông hữu hiệu cao, lá đòng tươi vàng lá gừng đến lúc chín, bông to, hạt mẩy, năng suất tăng và hạn chế sâu bệnh. Tổng GDP toàn tỉnh đạt 17.608 tỷ đồng, chỉ tăng 7,03% so với cùng kỳ và chưa đạt phân nửa so với nghị quyết tăng trưởng GDP 16,64% của cả năm 2009. Công nghiệp chiếm đến hơn 60% GDP, chỉ đạt 42,4% kế hoạch năm; một số sản phẩm chủ lực của tỉnh có giá trị kinh tế cao lại nằm trong nhóm giảm mạnh như: thép giảm 39,32%, phân NPK giảm 25,3%, thùng phuy giảm 46,96%; nhiều DN đang mất thị trường và chưa ký kết được đơn hàng cho năm 2009. Từ đầu năm 2009 đến nay, thống kê các DN trong các KCN cho thấy chưa có DN nào mở được thị trường mới. Một số DN Đài Loan đang phải xuất ngược về Đài Loan để cầm cự.Khó khăn của ngành công nghiệp tác động trực tiếp đến cán cân xuất nhập khẩu của tỉnh. Kim ngạch XK giảm 10,74% so với cùng kỳ. Đây là mức giảm đầu tiên trong nhiều năm trở lại đây. Kim ngạch nhập khẩu giảm mạnh, giảm 43,11% so với cùng kỳ, phần lớn hàng nhập khẩu là nguyên liệu cho ngành công nghiệp. Nhập khẩu giảm trong thời điểm hiện tại dự báo trong một vài tháng tới, tình hình sản xuất cũng sụt giảm.


chứng nhận ISO 22000 Nhiều người nông dân cho rằng đốt rơm rạ trên đồng ruộng sẽ tạo lượng phân bón tốt, nhưng theo các nhà khoa học việc này sẽ làm cấu trúc đất thay đổi. Ảnh: Hoàng Hà. Qua sử dụng các loại phân bón trên, vườn cà phê của anh được cải thiện rõ rệt, sản lượng và năng suất tăng gấp nhiều lần so với những năm trước. Anh Hoàng cho biết: Sau khi sử dụng phân bón của Cty Minh Phát tôi thấy cành cà phê vươn xa hơn, lá dày, hoa nở trên 90%. Niên vụ vừa qua thu được 17 tấn cà phê nhân, trung bình 3,5 tấn/ha. Vụ này vườn lại ra hoa, đậu quả đồng loạt dự kiến sẽ đạt trên 5 tấn/ha. Còn ông Lê Thể Thao, Chi hội trưởng Chi hội Nông dân thôn 2, xã Ea Kao, TP Buôn Ma Thuột định nhổ cà phê để tái canh lại thì gặp cán bộ Cty Minh Phát mời dự hội thảo tư vấn về loại phân bón NPK Phú Hào và Sinh thái Việt Mỹ, và ông đã mua về bón. Ông Thao cho biết: Nhà tôi có 1 ha cà phê khoảng 20 năm tuổi, do đất xấu nên cây nhanh già cỗi, trái nhỏ, nhân như hạt đậu xanh. Khi xịt phân sinh thái đợt 1 hoa bung nở trên 90%, tỷ lệ đậu trái tối đa, cành bắt đầu vươn dài, lá xanh lại… Xịt và tưới lần 2 cây được cải thiện rõ rệt, lá xanh, ngọn bung… Xịt lần 3 thì trái phổng to và bóng hẳn. Sản phẩm phân bón Sinh học Việt Mỹ góp phần trẻ hóa” vườn cà phê ở Tây Nguyên Nếu như năm trước chưa dùng NPK Phú Hào và Sinh thái Việt Mỹ may ra 1 ha thu được khoảng trên 2 tấn nhân. Năm nay sản lượng ước tính sẽ đạt trên 4 tấn, chắc chắn năm tới sẽ tăng hơn vì năm nay cây mới phục hồi”. Ông Phạm Viết Quyền, Chi hội trưởng Chi hội Nông dân thôn 4, xã Ea Kao có 4 sào tiêu 13 năm tuổi. Do đất xấu, tiêu già cỗi và bị bệnh, sản lượng thu chẳng được bao nhiêu. Nhờ làm công tác hội, ông được tiếp cận với sản phẩm NPK Phú Hào và Sinh thái Việt Mỹ nên đã mua về bón. Vườn tiêu của tôi bị bệnh nặng, mỗi năm may ra vớt vát được khoảng 4 tạ. Sau khi mua phân bón về xịt 2 lần thì cây phục hồi nhanh chóng, lá xanh hẳn, bông ra nhiều… Phân bón của Cty Minh Phát không chỉ giúp cây trồng tăng năng suất, mà còn giảm sâu bệnh, giảm chi phí. Năm nay ước tính thu về từ 1 - 1,2 tấn tiêu khô”, ông Quyền khẳng định. Ông Đậu Chí Thanh, Giám đốc Cty Minh Phát cho biết: Lúc đầu do nông dân chưa hiểu nên họ sử dụng phân bón của Cty còn ít, sau khi Cty tổ chức thí điểm các mô hình ở Buôn Ma Thuột, Buôn Đôn, Krông Buk Đăk Lăk, Cư Jút Đăk Nông… số hộ xài đã tăng lên. Nếu bón với số lượng lớn, từ 10 - 100 ha thì tiết kiệm được 5 - 7 triệu đ/ha, lợi nhuận tăng từ 25 - 35 triệu đ/ha. Sản phẩm NPK Phú Hào và Sinh thái Việt Mỹ có thể sử dụng chung với các loại thuốc BVTV giúp nông dân tiết kiệm thời gian, công sức. Vừa qua, tại Hà Nội, sản phẩm phân bón Sinh thái Việt Mỹ là một trong hơn 60 thương hiệu được BTC Chương trình Truyền thông, quảng bá thương hiệu vững mạnh - vượt qua suy thoái - hội nhập toàn cầu do Liên hiệp các Hội KHKT Việt Nam, Trung tâm Hỗ trợ xúc tiến thương mại - đầu tư công nghệ phối hợp tổ chức trao Cúp chứng nhận Thương hiệu nổi tiếng thế kỷ 21 - Thương hiệu vượt thời gian”. Tuy nhiên, trong tháng 5, để kịp thời đáp ứng nhu cầu mùa vụ, Tổng công ty Phân bón và Hóa chất Dầu khí tăng cường điều chuyển 10 nghìn tấn phân urê cho khu vực miền Trung và 5 nghìn tấn cho các tỉnh miền Tây Nam Bộ. Thị trường phân bón nhìn chung ổn định, lượng tiêu thụ không đột biến. Tuy nhiên, việc bình ổn giá phân bón trên thị trường gặp khó khăn do phải nhập khẩu một lượng lớn phân bón nên phụ thuộc vào sự biến động của giá thế giới. Giá phân lân tại 2 thị trường Hà Nội và Đà Nẵng vào khoảng 2.800 đồng/kg. Trong khi đó, tại TP Hồ Chí Minh, An Giang, Cần Thơ, giá phân lân có nhỉnh hơn, đạt 2.900 đồng/kg. Giá phân DAP về tới đại lý cấp 1 ở Hậu Giang là 750 nghìn-780 nghìn đồng/bao tùy loại, phân urê gần 500 nghìn đồng/bao. Bên cạnh đó, sản lượng phân lân vẫn ước đạt 145,5 nghìn tấn, tăng 20,0%; phân NPK ước đạt 172,3 nghìn tấn, tăng 24,4%; riêng DAP ước đạt 20 nghìn tấn, tăng 78,6%. Tính chung 5 tháng, so với cùng kỳ, phân đạm urê ước đạt 408,8 nghìn tấn, tăng 1,9%; phân lân ước đạt 668,3 nghìn tấn, tăng 5,4%; phân NPK ước đạt 791,6 nghìn tấn, tăng 36,7%; riêng DAP ước đạt 87,2 nghìn tấn, tăng 70,4%. Bộ Công Thương dự báo thị trường phân bón tháng 6 sẽ có biến động đáng kể do ảnh hưởng của việc Trung Quốc giảm thuế xuất khẩu và giá phân urê thế giới liên tục tăng trong những ngày gần đây./. Cây dưa chuột có tên khoa học là Cucumis sativus L. Thuộc họ bầu bí Cucurbitaceae; là loại rau ăn quả có thời gian sinh trưởng ngắn, năng suất cao. Nhiệt độ trung bình ngày đêm thích hợp cho dưa chuột là 22 - 24 độ C, chịu được nóng tốt nên có thể trồng được vào vụ hè. Nếu nhiệt độ đất bằng 15,6 độ C thì phải mất 9 - 16 ngày hạt dưa chuột mới nảy mầm được, nếu nhiệt độ đất là 21 độ C thì chỉ mất 5 - 6 ngày là hạt nảy mầm. Trường hợp quá nóng vào giai đoạn ra hoa thì cũng giảm khả năng thụ phấn của hoa. Dưa chuột cũng là cây chịu độ ẩm đất và không khí cao hàng đầu so với các loại rau. Giai đoạn cây dưa chuột tăng trưởng mạnh, yêu cầu về dinh dưỡng và nước cao từ sau khi hình thành tua bám vào dàn cho đến ra hoa, hình thành quả. 2. Các giống cho chế biến - Dạng sản phẩm cho chế biến muối chua bao gồm 2 dạng quả: Quả bao tử gồm 4 giống, trong đó có 1 dòng của Việt Nam, còn lại là 3 giống F1 của Đài Loan, Hà Lan và Mỹ. Quả nhỏ gồm 23 giống, trong đó chủ yếu là các giống địa phương và các dòng dưa chuột đang được chọn của Việt Nam. Ngoài ra có 6 giống từ Thái Lan và 3 giống từ Đài Loan. - Dạng sản phẩm cho chế biến muối mặn. Ở nhóm giống này chủ yếu có nguồn gốc từ Việt Nam 10 giống, Đài Loan 4 giống và Nhật Bản 5 giống. Đặc điểm sinh trưởng, phát triển của các giống cho chế biến: - Nhóm giống chín sớm: Thời gian từ mọc đến thu quả đầu sớm, dao động 30 - 35 ngày. Trong nhóm này có giống TN011, Tam Dương, PC4… - Nhóm giống chín trung bình: Thời gian từ mọc tới thu quả đầu 35 - 40 ngày, ví dụ như giống: Phú Thích, Marinda, PC1... - Nhóm giống chín muộn: Thời gian từ mọc tới thu quả đầu từ 40 - 45 ngày trở lên, đó là các giống Vista, Số 266. 4. Kỹ thuật gieo trồng 4.1. Thời vụ - Vụ xuân gieo hạt từ tháng 1 đến tháng 2 có thể kéo dài đến hết tháng 3; vụ đông từ tháng 9 đến tháng 12; vụ hè từ tháng 4 đến tháng 7. Năng suất cao nhất là vụ xuân, thấp nhất vụ hè. - Đối với các tỉnh trung du và miền núi phía Bắc có thể trồng dưa chuột quanh năm, tuy nhiên vào các tháng quá lạnh như cuối tháng 12, tháng 1 thì năng suất dưa chuột quá thấp vì nhiệt độ thời gian này xuống thấp. - Các tỉnh phía Nam gieo hạt cuối tháng 4 đầu tháng 5, thu hoạch giữa tháng 6 đến hết tháng 7. 4.2. Gieo cây con Để tiết kiệm hạt giống, công chăm sóc cây giai đoạn đầu và tăng độ đồng đều của cây, cần sản xuất cây con trong khay xốp hoặc khay nhựa có kích thước 60 x 45 cm với số lượng 60 hốc/khay. Vật liệu làm bầu gồm 40% đất, 30% trấu hun hoặc mùn mục và 30% phân chuồng hoai mục. Hạt ngâm trong nước ấm 35 - 40 độ C trong thời gian 3 giờ, sau đó ủ ở nhiệt độ 27 - 30 độ C. Khi hạt nứt nanh thì đem gieo vào các hốc, mỗi hốc 2 hạt và tưới đủ ẩm. Lượng hạt dưa gieo cho 1 ha là 0,7 - 1,0 kg/ha 30 gr/sào Bắc bộ. 4.3. Làm đất, trồng cây Dưa chuột có thể trồng được trên nhiều loại đất nhưng thích hợp trên đất có độ phì nhiêu cao, trung tính, pH từ 6 - 7,0. Đất chưa trồng các cây họ bầu bí để tránh lây nhiễm sâu, bệnh. Dưa chuột kém chịu trong môi trường đất chua mạnh. Khoảng cách gieo trồng thích hợp: Hàng cách hàng 50 - 60 cm, cây cách 30 - 40 cm, tương ứng với mật độ 27.000 - 43.000 hốc/ha tương ứng với 1.000 - 1.500 hốc/sào Bắc bộ. Chú ý nếu gieo trồng ở vụ xuân hè hoặc vụ hè thì mật độ thưa, còn ở vụ đông thì mật độ dày hơn. Làm đất kỹ, nếu gieo trồng vào xuân hè hoặc vụ hè có mưa nhiều thì phải lên luống cao 30 cm, vào vụ đông thì lên luống 20 cm. Mặt luống rộng 90 - 100 cm. Đào hốc hoặc đánh rạch theo hàng dọc theo luống, hàng cách mép luống 20 cm. Cho phân bón lót vào hốc, trộn đều với đất. Vì gieo thẳng hạt nên sau khi bón phân lót phải rắc lớp đất bột mịn lên trên, sau đó rắc hạt, mỗi hốc 3 hạt. Sau này khi cây đã mọc 2 - 3 lá thật phải tỉa bớt cây con chỉ để lại 1 - 2 cây/hốc. Đối với giống lai F1 thì chỉ để lại hợp quy, phân bón npk 1 cây/hốc. Sau gieo phủ rạ lên trên hốc, tưới đẫm nước. Sau đó hàng ngày tưới nước duy trì ẩm cho đến bén rễ hồi xanh. 5. Bón phân NPK-S Lâm Thao - Bón lót: 15 - 20 tấn phân chuồng hoai mục/ha 500 - 700 kg/sào + 500 - 600 kg /ha NPK-S5.10.3.8 từ 18 - 22kg/sào Bắc bộ. - Bón thúc: Chia làm 3 lần Thúc lần 1 khi cây có 2 - 3 lá thật. Dùng NPK-S loại 12.5.10-14: 300 - 350 kg/ha 11 - 13 kg/sào ; Bón thúc lần 2: Khi cây cao 20 cm, đã có tua cuốn. Dùng NPK-S loại 12.5.10-14: 250 - 300 kg/ha 11 - 13 kg/sào ; Thúc phân xong thì cắm giàn. Bón thúc lần 3 khi cây ra hoa và có quá rộ: Dùng NPK-S loại 12.5.10-14: khoảng 200 - 250 kg/ha 7 - 9 kg/sào. Bón thúc lần này kết hợp với tháo nước vào rãnh để tưới cho cây. 6. Thu hoạch và để giống dưa chuột Để ăn tươi phải thu hoạch sớm khi các u vấu ở quả còn nổi rõ, tức là sau khi hoa cái tàn 7 - 10 ngày. Muốn để giống chọn quả ở gốc, đều, thẳng. Thu khi quả thật già, vỏ vàng nhiều rạn chân chim. Để thêm 7 - 10 ngày nữa cho hạt chín sinh lý, sau đó bổ ra lấy hạt, đãi, hong khô. Chúc bà con nông dân sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao theo khuyến cáo để đạt năng suất và chất lượng dưa chuột cao, phục vụ cho tiêu thụ nội địa hoặc xuất khẩu..
1. Áo sơ mi nam dài tay 5 USD/chiếc Chi cục HQ Điện tử Hải Phòng 2. Áo jackét nữ 13,74 USD/cái Chi cục HQ Biên Hòa 3. Quần lót 6162268 3,39 USD/cái Chi cục HQ Biên Hòa 4. Cà phê bột hòa tan VNSX 49 CNY/kg Chi cục HQ CK Lao Cai 5. Tinh bột sắn do Việt Nam SX 5.120.000 VND/tấn Chi cục HQ Hữu Nghị Lạng Sơn 6. Chuối sấy khô 15kg/thùng 825.000 VND/thùng Chi cục HQ Cốc Nam Lạng Sơn 7. Ớt quả tươi 2,00 CNY/kg HQ CK Bí Hà Cao Bằng 8. Hoa cẩm chướng 0,20 USD/cành Sân bay Tân Sơn Nhất 9. Tỏi củ khô 251,00 USD/tấn HQ CK Lao Bảo Quảng Trị 10. Hạt sen 2,20 USD/kg HQ cảng Sài gòn KVI Nhập khẩu: 1. Gỗ hương tía xẻ 460,00 USD/m3 Ck Nam Giang Quảng Nam 2. Gỗ căm xe xẻ 400,00 USD/m3 HQ CK Cha Lo Quảng Bình 3. Antimon dạng thỏi 2500 USD/tấn HQ CK Ka Long 4. Hệ thống làm mát máy biến áp truyển tải bằng giấy cách điện 6465,68 USD/bộ Chi cục HQ Bắc Hà Nội- Hàng không 5. Máy làm nến nhỏ 640 USD/cái Chi cục HQ Nam Định 6. Thiếc dương cực 9000 USD/tấn Chi cục HQ CK Lao Cai 7. Phân bón NPK 428,50 USD/tấn Cảng Qui Nhơn Bình Định 8. Gỗ hương xẻ nhập khẩu từ Lào 639,00 USD/m3 HQ CK Cha Lo Quảng Bình 9. Xe ôtô đầu kéo sx 2009 HUYNDAI HD700 75.000,00 USD/cái CK Cảng Sài Gòn KV III 10. Phân bón DAP bao 50kg N=18%, P2O5= 46% 375,00 USD/tấn HQ Ga đường sắt Lao Cai. Lãnh đạo Sở NNPTNT Thanh Hóa và Công ty Supe Lâm Thao tham quan mô hình khảo nghiệm giống lúa mới có áp dụng quy trình bón phân NPK-S khép kín. Kháng đạo ôn hiệu quả Vụ mùa 2014 này, trung tâm đã phối hợp với Công ty CP Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao Công ty Supe Lâm Thao tổ chức khảo nghiệm và mở rộng sản xuất trên quy mô lớn tại các vùng sinh thái của tỉnh Thanh Hóa với 3 giống lúa gồm thuần Việt 2, thuần Việt 7 và thanh ưu 4 như Thọ Xuân, Hoàng Hóa, Như Xuân…với diện tích 35ha bằng phương pháp bón phân NPK-S Lâm Thao đồng bộ khép kín. Qua tham quan mô hình trình diễn tại cánh đồng lúa thuần huyện Thọ Xuân Thanh Hóa, ông Vũ Văn Nam – Giám đốc Trung tâm cho biết: Năm nay, dù thời tiết diễn biến thất thường, nhưng các giống lúa được đưa vào khảo nghiệm tại các ruộng cho thấy vẫn sinh trưởng và phát triển tốt. Hiện, các khu vực khảo nghiệm lúa đã bắt đầu chín, nhìn nhận bằng mắt có thể thấy các ruộng, lúa chín khá đều, đẹp”. Theo ông Nam, đặc biệt, đối với các khu ruộng lúa có áp dụng quy trình bón phân NPK-S khép kín, từ khi gieo giống đến nay đều cho thấy hiệu quả nhất định. Điều đáng nói là khả năng chống chịu thời tiết và kháng sâu bệnh, đặc biệt là các ruộng lúa có bón phân NPK-S không bị mắc bệnh cháy lá đạo ôn… Cũng qua kết quả khảo nghiệm cho thấy, ngoài việc kháng được bệnh hại cho cây lúa, quy trình bón phân NPK-S Lâm Thao khép kín còn giúp giảm được chi phí đầu tư về phân bón, thuốc trừ sâu, công chăm sóc… Từ việc chọn tạo, khảo nghiệm đưa ra giống lúa mới thì việc tìm và đưa vào sử dụng phân bón đạt chất lượng tốt như NPK-Lâm Thao cũng là một khâu rất quan trọng quyết định nhiều đến sự thành công của các giống lúa mới khi đưa ra thị trường cung cấp cho người dân sản xuất đạt hiệu quả cao”- ông Nam khẳng định. Năng suất tăng đạt gần 20% Ông Vũ Xuân Hồng Với chất lượng phân bón đảm bảo, trong những năm qua, sản phẩm của công ty luôn được bà con nông dân trong tỉnh Thanh Hóa tin dùng. Trong những năm tới, công ty sẽ tiếp tục khai thác thị trường và cung cấp đáp ứng đảm bảo nhu cầu dùng phân bón của người dân trong tỉnh. Cho đến thời điểm này, các diện tích lúa khảo nghiệm đang chín đều, bông to, đẹp, năng suất bình quân ước sẽ hơn 60 tạ/ha. Trong đó, thuần Việt 2 đạt trên 62 tạ/ha; thuần Việt 7 và thanh ưu 4 đạt từ 65-68 tạ/ha. Theo đánh giá, với sản lượng năng suất đạt như trên sẽ cao hơn trên dưới 20% so với các vụ trước đó. Với 3 sào lúa thuần tham gia vào mô hình khảo nghiệm theo quy trình bón phân NPK-S khép kín, ông Lê Sỹ Hùng ở thôn 8, xã Thọ Lộc Thọ Xuân cho biết: Từ việc cấy giống lúa thuần mới, áp dụng quy trình bón phân khép kín, năng suất lúa vụ này của tôi ít nhất cũng đạt trên 2,5 tạ/sào. Vụ tới, nếu được tham gia mô hình, tôi sẵn sàng tham gia và cấy thêm diện tích”. Qua kết quả khảo nghiệm trên, ông Nam khẳng định: Đây sẽ là cơ sở quan trọng để chúng tôi đề nghị Sở NNPTNT bổ sung vào cơ cấu phục vụ sản xuất của tỉnh trong vụ tới, trong đó, giống lúa thanh ưu 4 thuộc nhóm ngắn ngày phục vụ sản xuất trên các chân đất: Xuân muộn, cực muộn, mùa sớm làm cây vụ đông, chất đất né lụt cho hiệu quả năng suất tốt. Còn lại, 2 giống lúa, thuần Việt 2, thuần Việt 7, sẽ đề nghị Sở cho mở rộng sản xuất tại các vùng sinh thái trong tỉnh”. Ông Vũ Xuân Hồng – Phó Tổng Giám đốc Công ty Supe Phốt phát và Hóa chất Lâm Thao cho biết: Thanh Hóa là địa phương có đồng đất hop quy, phan bon npk đa dạng và khá phức tạp với nhiều loại đất khác nhau như đất đồi núi, vùng trũng, đất phèn… Để có loại phân bón phù hợp với điều kiện đó, trong những năm qua, công ty chúng tôi luôn luôn đổi mới trang thiết bị máy móc, áp dụng tiến bộ khoa học mới vào sản xuất tạo ra những sản phẩm mới cung cấp cho bà con nông dân trong toàn tỉnh, trong đó, điển hình là sản phẩm phân bón mới NPK-S đang áp dụng bón cho giống lúa mới trên địa bàn cho thấy hiệu quả thực tiễn tốt”. Trước sự tàn phá của cơn bão số 8 và số 10, Tổng CTCP Phân bón và hóa chất Dầu khíDPM đã triển khai khẩn cấp chương trình hỗ trợ cho những gia đình và học sinh tại miền Trung và Tây Nguyên bị thiệt hại nặng nề bởi 2 cơn bão trên. Tồng trị giá của chương trình là 2,5 tỷ đồng, trong đó, cán bộ nhân viên của DPM ủng hộ 400 triệu đồng. Theo đó, DPM cùng 2 đơn vị thành viên tại miền Bắc và miền Trung sẽ hỗ trợ gần 200 tấn phân bón NPK Phú Mỹ, trị giá gần 2 tỷ đồng cho gần 8.000 hộ gia đình nông dân để tái sản xuất vụ Đông Xuân; hỗ trợ trực tiếp 100 triệu đồng tiền mặt cho những gia đình bị nạn; 80.000 cuốn vở, trị giá 400 triệu đồng cho các em học sinh thuộc vùng bão lũ. Đây là chương trình cứu trợ nằm trong chuỗi hoạt động an sinh xã hội trực tiếp hướng đến bà con nông dân, đối tượng chính sách thông qua hình thức tặng phân bón, hỗ trợ con em nông dân nghèo đến trường. Kể từ khi thành lập đến nay, DPM đã đầu tư trên 600 tỷ đồng cho các chương trình an sinh xã hội. Cây na dai bón phân NPK-S cho năng suất cao. Với diện tích 880ha tập trung ở 3 xã: An Sinh, Việt Dân, Tân Việt, cây na dai là cây trồng quan trọng trong chiến lược chuyển dịch cơ cấu cây trồng trên toàn huyện. Năm 2013 – 2014 Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao phối hợp với Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh triển khai 3 mô hình bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây na dai tại 2 xã An Sinh và Việt Dân với tổng diện tích 3ha mỗi xã 1,5ha. Tổng số hộ tham gia mô hình là 5 hộ. Theo đó, người nông dân tham gia mô hình được hỗ trợ 100% phân bón NPK-S 12.5.10-14 Lâm Thao, Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh vận chuyển phân bón đến tận vườn cho nông dân. Ngay sau khi triển khai mô hình, Phòng Kinh doanh Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao, Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh, Phòng NNPTNT huyện Đông Triều, Hội Sản xuất kinh doanh na dai của huyện, cán bộ khuyến nông của 2 xã An Sinh và Việt Dân đã tổ chức tập huấn, chuyển giao quy trình kỹ thuật sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao, kết hợp với phương pháp thụ phấn nhân tạo cho cây na dai. Trong suốt thời gian sinh trưởng và phát triển, cán bộ Phòng Kinh doanh Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao đã cùng với cán bộ khuyến nông bám sát vườn na, hướng dẫn bà con nông dân bón phân đúng quy trình kỹ thuật, đảm bảo yêu cầu dinh dưỡng về thành phần và đủ lượng. Cụ thể: Mỗi năm bón 3 đợt: - Đợt 1: Bón sau thu hoạch quả- vào tháng 9–10, sử dụng NPK-S 12.5.10-14 với lượng 2,5kg/cây. - Đợt 2: Bón trước ra hoa- vào tháng 2–3, sử dụng NPK-S 12.5.10-14 với lượng 2,5kg/cây. - Đợt 3: Bón nuôi quả- vào tháng 6–7, sử dụng NPK-S 12.5.10-14 với lượng 2,5kg/cây. Vào vụ thu hoạch, bà con nông dân các xã An Sinh, Việt Dân khẩn trương thu hoạch với tâm trạng vui vẻ, hồ hởi, phấn khởi. Bà con nông dân lựa từng trái na, xếp vào thùng xốp, các thương lái đến tận vườn để mua rồi vận chuyển đi tiêu thụ tại các thị trường như Hà Nội, Hải Phòng… Trao đổi với chúng tôi, ông Hoàng Văn Phong ở thôn Phúc Thị, xã Việt Dân cho biết: Hiện gia đình ông có 2ha na dai được trên 10 năm tuổi, đây là giai đoạn sung mãn nhất của cây na, về phân bón từ trước đến nay tôi đã sử dụng nhiều loại phân bón của các công ty khác nhau, nhưng năm nay lần đầu tiên tôi sử dụng phân bón NPK-S 12.5.10-14 Lâm Thao và bón đúng theo quy trình kỹ thuật. Bón phân Lâm Thao cho cây na dai dễ làm, ít tốn công, cây na sinh trưởng và phát triển tốt, lá có màu xanh đậm, năng suất đạt 15 tấn/ha. Trong khi đó các diện tích bón phân thông thường năng suất na chỉ đạt 13 tấn/ha. Đặc biệt ở những vườn bón phân NPK-S Lâm Thao quả na to hơn, giá bán cao hơn các vườn khác 2.000 đồng/kg. Từ nay trở đi tôi sẽ sử dụng phân bón NPK-S Lâm Thao để bón cho cây na dai chứ không sử dụng các loại phân bón khác nữa” – ông Phong nói. Ông Hoàng Đức Quang – Giám đốc Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh cho biết: Tháng 8.2013 Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao đã hỗ trợ 22,5 tấn phân bón NPK-S 12.5.10-14 cho 5 hộ thuộc 2 xã An Sinh và Việt Dân để dựng mô hình bón phân cho cây na dai với diện tích 3ha. Mặc dù thời tiết đầu vụ rét đậm, rét hại kéo dài đã làm chậm, kéo dài thời gian sinh trưởng của cây na dai, song do được bón phân NPK-S Lâm Thao có đủ các dinh dưỡng đa lượng, trung lượng, vi lượng kết hợp với biện pháp thụ phấn nhân tạo nên năng suất na dai đạt 15 tấn/ha/năm, tăng 10% so với bón phân thông thường, giá bán na dai tại vườn trung bình đạt 20.000 đồng/kg, thu nhập sau khi đã trừ chi phí cho lãi 250 triệu đồng/ha/năm, tăng giá trị so với bón các loại phân truyền thống khác từ 15–20 triệu đồng/ha/năm, người dân rất phấn khởi. Phát biểu tại hội nghị tổng kết mô hình bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây na dai tại huyện Đông Triều ngày 27.8.2014, ông Vũ Xuân Hồng – Phó Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao đã phân tích những ưu điểm của phân bón Lâm Thao, khẳng định về chất lượng. Ghi nhận thành công của mô hình và cam kết trong thời gian tới công ty sẽ tiếp tục triển khai các mô hình bón phân NPK-S Lâm Thao cân đối, khép kín cho cây na dai và các loại cây trồng mới có hiệu quả kinh tế cao, tổ chức các hội nghị tập huấn kỹ thuật sử dụng phân bón Lâm Thao cho các xã trong toàn huyện. Thông qua Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh tổ chức cung ứng đầy đủ, kịp thời phân bón Lâm Thao đáp ứng nhu cầu phân bón phục vụ cho sản xuất nông nghiệp trên toàn tỉnh Quảng Ninh. Qua mô hình bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây na dai tại huyện Đông Triều cho thấy, sử dụng phân bón cân đối, hợp lý kết hợp với thụ phấn nhân tạo đã đem lại những hiệu quả tích cực: Cây na dai sinh trưởng và phát triển tốt, năng suất tăng so với bón phân truyền thống 10%, quả na to hơn, bán được giá hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn từ 15 – 20 triệu đồng. Từ kết quả của mô hình thực tế đã đạt được, hy vọng với phương pháp bón phân NPK-S Lâm Thao theo quy trình khép kín sẽ ngày càng được mở rộng tại nhiều địa phương, góp phần vào quá trình xóa đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Năm 2013 - 2014 Công ty cổ phần Supe phốt phát và Hóa chất Lâm Thao phối hợp với Công ty cổ phần Vật tư Nông nghiệp tỉnh Quảng Ninh triển khai 3 mô hình bón phân NPK-S Lâm Thao cho cây na dai tại 2 xã An Sinh và Việt Dân với tổng diện tích 3ha mỗi xã 1,5ha. Tổng số hộ tham gia mô hình là 5 hộ. Theo đó, người nông dân tham gia mô hình được hỗ trợ 100% phân bón NPK-S 12.5.10-14 Lâm Thao.

.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

CHỨNG NHẬN HỢP QUY THÉP CỐT BÊ TÔNG DỰ ỨNG LỰC THEO QCVN 07:2019/BKHCN

 CHỨNG NHẬN HỢP QUY THÉP CỐT BÊ TÔNG DỰ ỨNG LỰC THEO QCVN 07:2019/BKHCN - Ngày 15 tháng 11 năm 2019 Bộ Khoa học công nghệ ban hành thông tư ...